Hành lang pháp lý mới cho phát triển tri thức

Ngày 1-10 tới đây, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo chính thức có hiệu lực, mở ra một chương mới cho tiến trình phát triển dựa trên tri thức của Việt Nam.

Không chỉ khắc phục những bất cập cũ, đạo luật lần này định hình cách tiếp cận mới: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo toàn xã hội, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, khuyến khích thương mại hóa kết quả nghiên cứu và xây dựng nền tảng số. Với nhiều điểm đổi mới đột phá, Luật hứa hẹn sẽ trở thành động lực tăng tốc, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu.

Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm của Nhà máy Dược phẩm công nghệ cao CVI Pharma (Khu công nghệ cao Hòa Lạc).

Nghiên cứu khoa học tại phòng thí nghiệm của Nhà máy Dược phẩm công nghệ cao CVI Pharma (Khu công nghệ cao Hòa Lạc).

Tháo gỡ các điểm nghẽn

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho rằng, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo được xây dựng với tinh thần tiếp thu sâu sắc các chủ trương, tư tưởng lớn của Nghị quyết số 57-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Luật cũng thể hiện một cách rõ nét quyết tâm tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế lâu nay vẫn được xem là rào cản lớn trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Đáng chú ý, lần đầu tiên, khái niệm đổi mới sáng tạo được đưa vào luật, đặt ngang hàng với khoa học và công nghệ. Nếu khoa học và công nghệ tập trung vào nghiên cứu, phát triển tri thức và công nghệ mới, thì đổi mới sáng tạo bao trùm cả quá trình từ ý tưởng, thử nghiệm đến thương mại hóa, với sự tham gia của toàn xã hội.

Luật cũng chuyển trọng tâm quản lý. Nhà nước không còn can thiệp sâu từ đầu vào, mà tập trung vào hiệu quả và tác động cuối cùng. Cơ chế “thử nghiệm có kiểm soát” (sandbox) cũng được luật hóa, cho phép triển khai các mô hình, công nghệ mới trong phạm vi giới hạn để giảm rủi ro trước khi nhân rộng.

Đặc biệt, doanh nghiệp lần đầu tiên có một chương riêng trong luật. Với vai trò trung tâm, doanh nghiệp được khuyến khích mạnh mẽ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, không chỉ bằng nguồn lực của mình mà còn có hỗ trợ từ Nhà nước theo nguyên tắc vốn mồi. Các khoản chi nghiên cứu được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh và được khấu trừ thuế. Đây là bước tiến quan trọng, biến doanh nghiệp trở thành động lực chính của hệ sinh thái khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Một điểm nghẽn nhiều năm qua cũng đã được tháo gỡ: Quyền sở hữu kết quả nghiên cứu từ ngân sách nay mặc nhiên giao cho tổ chức chủ trì. Điều này tạo thuận lợi cho thương mại hóa, đồng thời bảo đảm minh bạch trong quản lý tài sản trí tuệ. Luật cũng định hướng làm chủ công nghệ chiến lược, ưu tiên đầu tư tập trung cho các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), năng lượng tái tạo, y sinh, công nghệ số.

Cùng với đó, các trường đại học được định hướng trở thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao và phối hợp với mạng lưới viện nghiên cứu chuyên ngành. Đây là giải pháp lâu dài để hình thành nguồn nhân lực trí tuệ, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng nhiều lần nhấn mạnh, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo không chỉ cụ thể hóa quan điểm của Đảng, mà còn là “bản tuyên ngôn” về khát vọng xây dựng một quốc gia hùng cường dựa trên tri thức và sáng tạo.

Những kỳ vọng thay đổi từ thực tiễn

Sự ra đời của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo mở ra hành lang pháp lý đồng bộ, khuyến khích sáng tạo toàn diện và gắn kết nghiên cứu với thị trường. Với việc doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, kỳ vọng sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm công nghệ “Made in Vietnam” có khả năng cạnh tranh, đưa doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Trên phương diện quản trị, cơ chế hậu kiểm và sandbox giúp các công nghệ mới như AI, blockchain, y tế số hay giáo dục số được thử nghiệm an toàn, trước khi triển khai rộng rãi. Đây là bước tiến phù hợp với tính chất luôn biến đổi và cần thử nghiệm của khoa học, công nghệ.

Ở góc độ thương mại hóa, việc trao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho tổ chức chủ trì sẽ khuyến khích các nhà khoa học hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, đưa sản phẩm nghiên cứu đến gần hơn với đời sống. Cùng với đó, các cơ chế như: Sàn giao dịch công nghệ, trung tâm hỗ trợ chuyển giao, định giá tài sản trí tuệ… được luật hóa, tạo thành hệ sinh thái thương mại hóa minh bạch, hiệu quả.

Một điểm nhấn khác là thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện. Việc xây dựng nền tảng số và cơ sở dữ liệu quốc gia sẽ kết nối thông tin giữa cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân đóng góp dữ liệu. Đây chính là hạ tầng quan trọng cho phát triển kinh tế tri thức.

Ở cấp địa phương, luật trao quyền để các tỉnh, thành phố chủ động thành lập quỹ đổi mới sáng tạo, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cấp tỉnh và triển khai các chương trình phù hợp đặc thù. Qua đó, từng địa phương có thể hình thành hệ sinh thái sáng tạo riêng, gắn với tiềm năng vùng.

Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo không chỉ là văn bản pháp lý mà còn là một tuyên ngôn phát triển bằng tri thức. Với những đổi mới đột phá cùng sự đồng hành của doanh nghiệp, Luật hứa hẹn tạo ra cú hích mạnh mẽ, giúp Việt Nam cạnh tranh bằng chất lượng trí tuệ và khẳng định vị thế trong kỷ nguyên hội nhập.

Thu Hằng

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/hanh-lang-phap-ly-moi-cho-phat-trien-tri-thuc-717362.html