Hành trình tự hào của 'sợi dây di sản'

Khi Nghi lễ và trò chơi Kéo co được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nhiều người đã không thể hiểu nổi vì sao kéo co lại trở thành… di sản. Nhưng nay, cộng đồng đã có cái nhìn khác. Số người thực hành tăng lên. Thêm những di sản kéo co mới được nhận diện.

Đội kéo song Hương Canh (xã Bình Nguyên, Phú Thọ).

Đội kéo song Hương Canh (xã Bình Nguyên, Phú Thọ).

Sự đa dạng về sắc thái văn hóa

Chứng kiến màn hội ngộ của tám cộng đồng di sản kéo co ở Việt Nam trong khuôn khổ các hoạt động kỷ niệm 10 năm Nghi lễ và trò chơi Kéo co được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại do thành phố Hà Nội tổ chức, mới thấy sự đa dạng và chiều sâu văn hóa của loại hình di sản tưởng như chỉ là một trò chơi này. Chỉ là một “sợi dây”, có thể bằng song, có thể từ cây tre… và phương thức vẫn theo mẫu số chung của trò chơi kéo co là chia làm hai đội và để… kéo đi co lại, cho đến khi một bên giành phần thắng thì trò chơi kết thúc. Nhưng đi vào chiều sâu, mỗi “sợi dây” lại gắn với những câu chuyện dài.

Kéo co của thôn Hòa Loan (xã Vinh Thành, Phú Thọ) lôi cuốn vì mỗi “giải kéo” (một lần kéo) của trò chơi thì gần như cả làng cùng… tham gia. Cây song kéo co dài tới 70m. Giải kéo đông nhất thu hút tới 600 người, không phân định thời gian mà tùy thuộc vào độ quyết liệt của đôi bên. Có những “keo” kéo dài cả giờ đồng hồ. Việc cả làng cùng… kéo khiến không khí lễ hội lan tỏa vào tất cả mọi người dự hội, không kể già trẻ trai gái hay dâu rể của làng. Đem đến chương trình giao lưu một cây song ngắn hơn, chỉ vài chục mét, nhưng nghi lễ và trò chơi kéo co của thôn Hòa Loan khiến cộng đồng “dậy sóng” khi hàng trăm người cùng được tham gia.

Bắt nguồn từ sự tích luyện thủy quân của Đức vua Ngô Quyền, di sản kéo song Hương Canh (xã Bình Nguyên, Phú Thọ) lại là cuộc đua về sức khỏe, sự bền bỉ và sự phối hợp khéo léo giữa người chỉ huy và các thành viên đội kéo. Cây song dài được luồn qua một cọc gỗ. Người ta đào những hố đất, các tráng đinh ngồi bệt thành từng đôi, đạp chân vào hố làm điểm tựa. Điều này khiến tăng lực kéo của mỗi bên lên rất nhiều. Mỗi đội có một tướng và hai sĩ, tướng đứng sát cột mốc, giáp mặt với tướng bên kia; một sĩ đứng giữa dây và một sĩ đứng cuối dây nhận lệnh của tướng và thông báo tình hình trận đấu bằng các kiểu phất cờ đã thống nhất bí mật từ trước, để bên kia không giải được mật mã. Mỗi đội chơi đều nghĩ ra nhiều “chiêu trò” để cho đối phương mệt mỏi. Khi thì liên tục “cò cưa”, khi thì có những nhịp nghỉ có thể làm đối phương mất cảnh giác… Nhịp kéo có những lúc diễn ra với sức mạnh và tốc độ đến mức sự cọ xát giữa cây song và cột gỗ làm khói bốc lên nghi ngút… Trong khi đó, kéo co của cộng đồng thôn Hữu Chấp (nay thuộc phường Kinh Bắc, tỉnh Bắc Ninh) lại sử dụng những cây tre lớn. Ông Nguyễn Văn Sơn, đại diện cộng đồng kéo co Hữu Chấp cho biết: “Từng nghi thức chọn tre, chặt tre đều phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt để bảo vệ tính linh thiêng của nghi lễ. Các giáp của làng chia làm hai “phe” bên đông, bên tây để thi đấu. Điều quan trọng là không phải bên nào kéo khỏe là bên đó thắng. Theo quan niệm từ xa xưa, bên đông luôn là bên thắng vì với người dân quê tôi, bên đông thắng thì vụ chiêm sẽ bội thu mùa màng. Mà vụ chiêm có ý nghĩa quan trọng với người dân quê tôi. Hướng đông cũng là hướng mặt trời mọc, điều này thể hiện tín ngưỡng tôn thờ mặt trời”.

Câu chuyện ở thôn Hữu Chấp cũng là câu chuyện chung của nhiều cộng đồng kéo co khác: Dẫu cuộc đua có quyết liệt đến mấy thì phía đông – phía của mặt trời luôn được coi trọng, là phía giành phần thắng. Nếu sử dụng cây song là dây kéo, thì gốc luôn đặt đằng đông, ngọn đặt đằng tây cho mỗi màn kéo co. Thắng thua ở đây đều gắn với ý nghĩa cầu mùa. Như ở cộng đồng kéo co thôn đền Trấn Vũ (phường Long Biên, Hà Nội), đội mạn Đường luôn phải thắng thì mùa màng mới bội thu, làm ăn mới thuận lợi. Ý nghĩa sâu xa nhất của mỗi cuộc kéo co chính là ý nghĩa tâm linh, là sự gắn kết cộng đồng.

Cộng đồng làm chủ, nhà nước quản lý

PGS, TS Lê Thị Minh Lý, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia chia sẻ, sau 10 năm, nhận thức của cộng đồng – chủ thể của di sản về kéo co được nâng lên. Số lượng người thực hành di sản cũng tăng theo cùng nhận thức. Cộng đồng duy trì di sản kéo co giữ gìn di sản với niềm tin rằng đó là một nghi lễ phục vụ Thánh hoặc Thành hoàng, với niềm tin rằng truyền thống này cần được bảo tồn toàn vẹn. Dù là biểu diễn hay giao lưu, các nghi thức truyền thống liên quan đến chọn vật liệu, chọn người kéo, lễ thánh… đều được thực hiện tỉ mỉ. Từ việc quan tâm đến bảo vệ, phát huy giá trị di sản, có tới bốn cộng đồng kéo co mang tính chất di sản nữa được nhận diện, so với sáu cộng đồng được ghi danh cách đây 10 năm, gồm: Kéo mỏ Ngải Khê (xã Chuyên Mỹ, Hà Nội), kéo co Hòa Loan, kéo cõi Phú Hào (phường Vị Khê, tỉnh Ninh Bình), kéo dây thôn Trà Đoài (xã Kiến Xương, tỉnh Hưng Yên). Trong đó, kéo cõi Phú Hào đã được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Những năm gần đây, vai trò của cộng đồng được đề cao. Nhưng trên thực tế, nhận thức của cộng đồng là không đồng đều. Điều này dẫn đến nguy cơ xảy ra sai lạc. Từng có thời gian cộng đồng kéo co đền Trấn Vũ đưa cả đội kéo co nữ tham gia. Điều này bổ sung khía cạnh mới. Nhưng gốc gác, vốn cộng đồng kéo co ở đây chỉ có nam giới tham gia. Sau này, khi được ghi danh, nhờ được “nhận thức lại” nên nhân dân địa phương mới khôi phục hoàn toàn theo truyền thống là kéo co nam. Bên cạnh đó, việc di sản kéo co hồi sinh cũng kéo theo nguy cơ đề cao giá trị “trò chơi” mà hạ thấp yếu tố nghi lễ. Đây là kinh nghiệm mà các quốc gia như Hàn Quốc, Campuchia nhấn mạnh. Bởi vậy, bài học trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản là trao quyền cho chủ thể, với sự định hướng, quản lý của cơ quan nhà nước

Mười năm được vinh danh di sản, kéo co đã “kéo” cộng đồng gắn kết nhau hơn – đó là điều đáng quý nhất khi lối sống hiện đại phát triển, tính cố kết cộng đồng dễ bị phá vỡ.

Giang Nam

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/hanh-trinh-tu-hao-cua-soi-day-di-san-post924517.html