Hậu khủng hoảng Sri Lanka, 'ông lớn' nào sẽ tạo ảnh hưởng thành công?

Cuộc khủng hoảng ở Sri Lanka để lại một nền kinh tế hoang tàn, một khoảng trống nguy hiểm cho cuộc cạnh tranh quyền lực nội bộ và tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn tại đây.

Không ai có thể tưởng tượng được một đất nước giàu tiềm năng, nằm ở vị trí địa lý vô cùng thuận lợi và có thiên nhiên ưu đãi như Sri Lanka lại có thể rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị tồi tệ nhất kể từ khi giành được độc lập năm 1948 đến nay.

Đỉnh điểm của khủng hoảng là cuộc biểu tình bao loạn ngày 9/7 khiến Tổng thống Gotabaya Rajapaksa phải từ chức và rời khỏi đất nước, để lại một nền kinh tế hoang tàn, một khoảng trống nguy hiểm cho cuộc cạnh tranh quyền lực nội bộ và tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn tại đây.

Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng

Trước hết, cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ chính cơ cấu của nền kinh tế Sri Lanka. Sau khi Anh trao trả độc lập năm 1948, Sri Lanka đã chú trọng phát triển nông nghiệp, nhất là các cây trồng phục vụ xuất khẩu như chè, cà phê, cao su và gia vị. Sri Lanka trở thành quốc gia xuất khẩu chè lớn nhất thế giới vào năm 1995, với 23% thị phần toàn cầu, mang về nguồn thu 1,3 tỷ USD trong năm 2021.

Đầu thập niên 2000, Sri Lanka bắt đầu phát triển các ngành chế biến lương thực, dệt may, viễn thông. Doanh thu từ xuất khẩu hàng dệt may của Sri Lanka năm 2020 đạt 4,4 tỷ USD. Sri Lanka cũng phát triển ngành du lịch, đem lại nguồn thu 5 tỷ USD đóng góp 25% ngân sách.

Xuất khẩu lao động cũng là một nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho Sri Lanka. Số tiền thu được từ các nguồn nói trên được dùng để nhập khẩu các mặt hàng thực phẩm thiết yếu như nhiên liệu, thực phẩm, dược phẩm, đồ gia dụng mà Sri Lanka không tự sản xuất được. Tuy nhiên, do quá phụ thuộc vào xuất khẩu nông sản, sản phẩm dệt may và dịch vụ du lịch, nên bất cứ tác động tiêu cực nào trong lĩnh vực này cũng sẽ tạo ra cú sốc đối với kinh tế Sri Lanka và khiến dự trữ ngoại hối rơi vào tình trạng căng thẳng.

Cảng Hambantota một trong những công trình gây ra khoản nợ lớn cho Sri Lanka. Ảnh: Xinhua.

Cảng Hambantota một trong những công trình gây ra khoản nợ lớn cho Sri Lanka. Ảnh: Xinhua.

Nguyên nhân thứ hai là sau khi nội chiến kết thúc năm 2009, Sri Lanka bước vào khôi phục kinh tế, với một chính sách vay nợ nước ngoài tràn lan để xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng bất kể khả năng sinh lời của nó. Vay nợ để phát triển cơ sở hạ tầng là bình thường và cần thiết, nhưng nếu các dự án cơ sở hạ tầng đó không sinh lời, do vậy không trả được nợ, thì sẽ bị rơi vào bẫy nợ.

Sri Lanka là trường hợp điển hình như vậy. Sri Lanka vay tiền Trung Quốc để xây dựng cảng Hambantota, nhưng không có tàu cập cảng, không thu được phí dịch vụ, không sinh lời, nên không trả được nợ đáo hạn cho Trung Quốc và cuối cùng buộc phải bán cho Trung Quốc theo thời hạn 99 năm. Trung Quốc còn tham gia vào dự án trị giá 13 tỷ USD phát triển trung tâm kinh tế ven biển ở Colombo.

Trong khi đó, Sri Lanka thường xuyên nhập siêu khoảng 10 tỷ USD năm, do vậy nguồn dự trữ ngoại tệ cũng bị hạn chế, thường xuyên gặp khủng hoảng cán cân thanh toán và buộc phải dựa vào vay bên ngoài để ứng phó.

Các khoản vay nước ngoài của Sri Lanka

Ngoài khoản vay 1,5 tỷ USD của IMF năm 2016, Sri Lanka còn vay của nhiều nước khác, trong đó Trung Quốc khoảng 8 tỷ USD, chiếm gần 16% tổng nợ nước ngoài của Sri Lanka, theo sau là Nhật Bản và Ấn Độ.

Tích tụ lại cho đến nay nợ nước ngoài của Sri Lanka đã lên tới 51 tỷ USD, và mỗi năm nợ đáo hạn phải trả là 7 tỷ USD/năm, quá lớn so với khả năng của Sri Lanka. Sri Lanka đã phải sử dụng một lượng lớn ngoại hối dự trữ để trả nợ công, dẫn tới dự trữ ngoại tệ vốn đã eo hẹp, giảm từ 6,9 tỷ USD năm 2018 xuống còn 25 triệu USD và tháng 5/2022, không còn đủ để nhập khẩu nhiên liệu, lương thực, thuốc men, các mặt hàng thiết yếu. Đồng tiền mất giá tới 80%, khan hiếm hàng hóa trầm trọng đẩy lạm phát lên cao 70%.

Trong bối cảnh như vậy, thì nền kinh tế Sri Lanka liên tiếp phải hứng chịu tác động của thời tiết khắc nghiệt làm giảm sản lượng nông nghiệp trong năm 2016 - 2017. Tình hình trở nên tồi tệ hơn với loạt cú sốc từ bên trong và bên ngoài liên tiếp từ năm 2019 đến nay.

Đầu tiên là vụ đánh bom khủng bố liên hoàn tại các nhà thờ và khách sạn sang trọng ở Colombo vào tháng 4/2019, khiến lượng khách du lịch giảm tới 80%, gây cạn kiệt một nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Cú sốc thứ hai là đại dịch Covid từ 2020 với những biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt đã chặn đứng ngành du lịch, khiến toàn bộ nguồn thu từ du lịch biến mất. Đại dịch cùng làm mất đi nguồn thu từ xuất khẩu lao động của Sri Lanka.

Đầu năm 2022 xung đột Nga - Ukraine cùng những biện pháp trừng phạt nặng nề chưa từng có của Mỹ và Phương Tây nhằm vào Nga đã gây ra tác động làm đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ của nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt, những nước có nền tảng kinh tế yếu, quá phụ thuộc vào bên ngoài và thiếu nhưng biện pháp ứng phó linh hoạt và kịp thời như Sri Lanka sẽ phải chịu ảnh hưởng năng nề nhất.

Viễn cảnh đáng lo ngại

Bên cạnh đó, nền kinh tế Sri Lanka lại bị giáng những đòn nặng nề bởi chính những chính sách sai lầm liên tiếp của Chính phủ. Trong nhiều năm qua, sau khi nội chiến kết thúc, gia tộc Rajapaksa đã được nhân dân tín nhiệm bầu làm người lãnh đạo đất nước, do có công lớn trong việc tiêu diệt lực lượng Hổ Tamil đem lại hòa bình cho Sri Lanka. Khi xảy ra các vụ khủng bố năm 2019, người dân Sri Lanka đã một lần nữa tin tưởng bầu ông Gotabaya Rajapaksa vốn là Bộ trưởng Quốc phòng trong thời kỳ nội chiến, lên làm Tổng thống với hy vọng ông này mang lại ổn định được đất nước.

Người biểu tình Sri Lanka chiếm văn phòng chính phủ. Ảnh: GETTY IMAGES.

Người biểu tình Sri Lanka chiếm văn phòng chính phủ. Ảnh: GETTY IMAGES.

Nhưng khi ông này lên cầm quyền đã sửa đổi hiến pháp, tập trung quyền lực cho bản thân và gia đình, đưa anh trai lên làm thủ tướng và em trai lên làm Bộ trưởng Tài chính. Việc tập trung quyền lực đã dẫn tới chuyên quyền độc đoán và coi thường ý kiến phản biện, đưa đến những sai lầm trong điều hành kinh tế.

Năm 2019, chính phủ mới của Tổng thống Gotabhaya Rajapaksa quyết định đồng loạt bãi bỏ và giảm thuế với ý định dùng đó làm biện pháp kích thích kinh tế. Các loại thuế gián thu như thuế xây dựng quốc gia, thuế trả lương và phí dịch vụ kinh tế được bãi bỏ.

Thuế giá trị gia tăng được giảm từ 15% xuống còn 8%. Thuế doanh nghiệp giảm từ 28% xuống 24%. Tuy nhiên, việc giảm thuế này không mang lại hiệu ứng phát triển, mà trái lại gây ra thất thu lớn cho ngân sách quốc gia, ước tính làm giảm khoảng 2% GDP.

Khi đại dịch xảy ra làm nguồn thu và dự trữ ngoại tệ bị cạn kiệt, chính phủ lại mắc một sai lầm nữa là đã ra lệnh cấm nhập phân bón, ép nông dân chuyển sang dùng phân hữu cơ, nhưng biện pháp này cũng gây phản tác dụng khiến sản lượng nông nghiệp, cụ thể là chè, cao su và gạo bị suy giảm, dẫn đến tình trạng thiếu lương thực. Sai lầm nối tiếp sai lầm, khi tình trạng khan hiếm hàng hóa, lạm phát xảy ra do thiếu ngoại tệ để nhập khẩu, lẽ ra cần phải khẩn trương đàm phán với IMF và các nhà tài trợ để cứu vãn nền kinh tế, nhưng chính phủ Rajapaksa đã tỏ ra rất chậm trễ, ngập ngừng trong đàm phán, khiến tình trạng thiếu lương thực, khí đốt, nhiên liệu và thuốc men, kéo dài quá sức chịu đựng của người dân.

Khủng hoảng kinh tế đã dẫn đến khủng hoảng chính trị. Người dân Sri Lanka đã xuống đường biểu tình vì phẫn nộ đối với những nhà lãnh đạo mà họ cho là quản lý yếu kém, tham nhũng và chuyên quyền.

Cuộc biểu tình bao loạn ngày 9/7/2022 buộc Tổng thống Gotabaya Rajapaksa phải từ chức, đã đánh dấu chấm hết đối cho thời kỳ nắm giữ quyền lực của gia tộc Rajapaksa.

Sự ra đi của gia tộc Rajapaksa đã để lại chỗ trống quyền lực, cần phải được lấp đầy bởi những nhà lãnh đạo mới, một nội các đa đảng với các nhà kỹ trị có nhiều kinh nghiệm kinh tế, đủ năng lực để đưa đất nước vượt qua khó khăn hiện tại và thoát khỏi khủng hoảng.

Tuy nhiên, để tìm ra được một người lãnh đạo mới, một chính phủ mới được nhân dân Sri Lanka chấp vào lúc này là điều thực sự khó, bởi người dân Sri Lanka không chỉ chán ghét gia tộc Rajapaksa, mà còn thất vọng, mất lòng tin vào với các tầng lớp chính trị và cả hệ thống chính quyền dù thuộc đảng phải nào. Nếu cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài, khoảng trống quyền lực ở Sri Lanka có thể dẫn đến nguy cơ nổi lên của các lực lượng cực đoan, đưa đất nước này lún sâu hơn nữa vào tình trạng hỗn loạn.

Hậu khủng hoảng, Trung, Mỹ, Ấn đều muốn tạo ảnh hưởng

Khủng hoảng chính trị hiện nay không chỉ tạo ra khoảng trống nguy hiểm trong nội bộ Sri Lanka mà còn có thể khiến cạnh tranh địa chính trị Nam Á thêm khốc liệt. Nằm ở vị trí chiến lược tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương, Sri Lanka luôn đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều cường quốc. Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ đã và đang dành ra nhiều khoản đầu tư lớn, cũng các ưu đãi về tín dụng nhằm tranh thủ giành ảnh hưởng tại đảo quốc Ấn Độ Dương này.

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà giải pháp cấp bách đối với bất kỳ một chính phủ nào mới lên ở Sri Lanka không còn cách nào khác là phải trông chờ nguồn tài trợ từ bên ngoài để tái cơ cấu nợ và có nguồn ngoại tệ nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như xăng dầu, thuốc men, lương thực, thì yếu tố quyết định tới cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn tại Sri Lanka sẽ nằm ở việc ai sẽ có thể hào phóng cung cấp các khoản cứu trợ mới cho đất nước này.

Các nước lớn đều muốn tạo ảnh hưởng ở Sri Lanka. Ảnh minh họa.

Các nước lớn đều muốn tạo ảnh hưởng ở Sri Lanka. Ảnh minh họa.

Đối với Trung Quốc, Sri Lanka là một mắt xích quan trọng trong kế hoạch Vành đai con đường và Chuỗi ngọc trai ở Ấn Độ dương. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện chưa đáp ứng đề nghị của Sri Lanka về việc giúp đỡ tài chính, có thể là do muốn thấy Sri Lanka sụp đổ hẳn để dễ bề thao túng, nhưng cũng có thể do bản thân đang gặp khó khăn kinh tế và không muốn bị chỉ trích thêm do đã thực hiện ngoại giao bẫy nợ đối với Sri Lanka. Trung Quốc cũng có thể đang chờ đợi một chính phủ mới được thành lập ở Sri Lanka, sau đó mới quyết định dùng viện trợ để tranh thủ, lôi kéo Sri Lanka vào quĩ đạo của mình.

Với Ấn Độ, một nước Sri Lanka bị khủng hoảng và rơi vào quĩ đạo của Trung Quốc sẽ là một thách thức an ninh lớn đối với sườn phía Đông Nam của mình và đối với việc triển khai chính sách Láng giềng trên hết, nhằm duy trì ảnh hưởng nổi trội của Ấn Độ ở Nam Á và Ấn Độ dương. Do vậy, từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, Ấn Độ đã rất tích cực can dự, cho đến nay đã cho Sri Lanka vay 4 tỷ USD để nước này tái cơ cấu nợ và có ngoại tệ để nhập hàng thiết yếu.

Các bài viết cùng tác giả

Các bài viết cùng tác giả

Với Mỹ, Sri Lanka đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong Chiến lược Ấn Độ dương - TBD tự do rộng mở. Mỹ đang tích cực thông qua IMF để giúp Sri Lanka vượt qua khủng hoảng, tuy nhiên sự giúp đỡ của IMF luôn kèm theo các điều kiện chặt chẽ, khiến cho đàm phán bị kéo dài.

Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước lớn như nói trên, Sri Lanka sẽ phải lựa chọn dựa vào một trong những cường quốc trên đây, hoặc phải thực hiện chính sách cân bằng với tất cả các cường quốc để tranh thủ nguồn lực xử lý vấn đề kinh tế trong nước cấp bách. Đây sẽ là một bài toán hóc búa với bất cứ chính quyền nào sắp tới của Sri Lanka.

Nguồn Tổ Quốc: https://toquoc.vn/hau-khung-hoang-sri-lanka-ong-lon-nao-se-tao-anh-huong-thanh-cong-82022187125228790.htm