Hãy sống thật rồi mới nghĩ đến việc học thật, thi thật

Giáo dục là quá trình hình thành nhân cách của một con người. Bởi vậy, sống thật là việc đầu tiên chúng ta cần làm, sau đó mới là học thật và thi thật.

Giáp Văn Dương lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Công nghệ Vienna (Áo) ngành Vật lý Kỹ thuật (2006). Sau một thời gian ngắn làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại Áo, ông chuyển qua làm postdoc tại khoa Hóa học, Đại học Liverpool (Anh) từ 2007-2010, Từ 2010-2012 ông về Singapore làm nghiên cứu tại Temasek Laboratories, Đại học Quốc gia Singapore. Từ 2013 đến nay, ông trở lại Việt Nam và tập trung toàn thời gian để hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Năm 2015, ông được Asia Society chọn là Asia 21 Young Leaders.

[...]

- Tôi thì có suy nghĩ rằng, xét về mặt nguyên lí, cổ kim Đông Tây cũng vậy thôi: Đã nói tới giáo dục tất yếu phải nói tới đặc tính “thật”. Nền giáo dục nào cũng tất yếu phải coi đây là đặc tính căn bản nhất, để từ đó xây dựng những đặc tính khác.

Vậy mà trong lúc này chúng ta bắt buộc phải nhấn mạnh vào nó, đề cao nó, coi nó như mục tiêu để hướng đến. Điều ấy có nghĩa là trên thực tế, nền giáo dục của chúng ta đã và đang tồn tại rất nhiều điều không thật?

- Vâng! Đấy chính là một sự thật. Chúng ta đã có những cuộc vận động như “không được chạy theo thành tích ảo”, tức là đã có lúc cả hệ thống giáo dục của chúng ta chạy theo cái ảo, cái không thật. Một trong những ví dụ mà chúng ta đều thấy đó là chạy theo điểm số. Khi chạy theo điểm số thì sẽ chỉ có điểm số, chứ không chắc đã có giáo dục thật, và càng không chắc đã có nhân tài thật. Từ lâu nay, chúng ta đã nhầm lẫn giữa người giỏi và người học giỏi. Người học giỏi lại đồng nhất với người thi giỏi. Vì thế, nhân tài của chúng ta được mặc định là người có điểm số cao, tức là người thi giỏi.

Nhưng trên thực tế, người giỏi, hay nhân tài thật, phải là người làm giỏi, người tạo ra giá trị cho cuộc sống. Tiếc rằng, nền giáo dục của chúng ta chưa bao giờ đo lường chất lượng giáo dục bằng tiêu chí này, nên chỉ có thành tích về điểm số, mà không có nhân tài thật.

- Anh làm tôi nhớ tới lời than vãn của cố giáo sư Văn Như Cương, rằng có hàng loạt những bộ hồ sơ xin xét tuyển vào trường của thầy mà ở đó là chi chít điểm 9, điểm 10. Giáo sư từng đặt câu hỏi: Những điểm số này có thật không?

- Chuyện đó chẳng phải chỉ ở thời thầy Văn Như Cương đâu, mà ngay bây giờ vẫn vậy. Trong các cuộc xét tuyển vào các trường chuyên, tôi nhìn thấy trong các bộ hồ sơ xin tuyển có rất nhiều bộ mà từ lớp 1 đến lớp 5 đều 10 hết. Điểm 10 cho tất cả các môn. Tôi nhấn mạnh là điểm 10 cho tất cả các môn, trong tất cả năm năm học đấy nhé. Học tập là một hành trình nhận thức, là một quá trình sửa sai và trưởng thành. Không có một học sinh nào có thể hoàn hảo trong nhận thức để đạt được một kết quả hoàn hảo như vậy trong suốt cả bậc học. Chắc chắn phải có một cái gì đó rất sai ở đây, và tôi cho rằng cái sai đó chính là sự không thật trong giáo dục, thể hiện qua sự không thật của điểm số.

[...]

- Trên một diễn đàn giáo dục uy tín, tôi đọc được một dòng tít nói đúng đến điều chúng ta đang bàn: Không thể có học thật nếu còn văn mẫu. Nhưng rồi tôi cũng nghĩ đến một trường hợp nổi tiếng đã thoát khỏi văn mẫu, thoát khỏi khuôn khổ.

Trường hợp đó diễn ra trong một cuộc thi học sinh giỏi văn, và khi được đề nghị phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, một em học sinh ở Hà Nội đã nói rõ là em không có cảm xúc với tác phẩm này. Chuyện đúng – sai như thế nào hậu xét, nhưng chỉ riêng việc dám nói rõ, như vậy thì tôi nghĩ em ấy đã sống thật với mình.

- Câu chuyện này thực ra đã chạm vào những khúc rất sâu của giáo dục đấy nhé. Bạn học sinh Hà Nội nói rằng bạn ấy không có cảm xúc gì với bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, là bởi câu chuyện diễn ra ở một địa phương rất xa và ở một thời đại rất xưa so với không gian và thời đại bạn ấy đang sống. Nhưng nếu thay câu chuyện đó bằng một câu chuyện diễn ra ở Hà Nội, trong thời đại bạn ấy sống thì chắc chắn bạn ấy sẽ có cảm xúc.

Cho nên câu hỏi đặt ra là: Tại sao chúng ta để học sinh cả nước, ở những vùng miền khác nhau, với những đặc điểm văn hóa, thói quen khác nhau phải học một chương trình giống hệt nhau? Bạn hãy hình dung là cùng trong tuần ấy, cả triệu học sinh cả nước học đúng một bài ấy, phải hiểu đúng những điều ấy, phải có đúng những cảm xúc ấy, vậy thì có phi lí không? Có thật được không?

 Sách 39 cuộc đối thoại dành cho người trẻ của nhà báo Phan Đăng. Ảnh: K.Đ.

Sách 39 cuộc đối thoại dành cho người trẻ của nhà báo Phan Đăng. Ảnh: K.Đ.

- Mới đây chúng ta đã thay đổi điều này bằng cách áp dụng chính sách một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa, thưa anh!

- Nhiều bộ sách đúng là một giải pháp, và sẽ khắc phục được phần nào, nhưng khó có thể khắc phục triệt để. Muốn khắc phục triệt để phải có những đột phá về phương pháp giáo dục, về cách tiếp cận mới trong giáo dục. Khi đó sách giáo khoa chỉ là một công cụ mà thôi. Còn nếu vẫn coi sách giáo khoa là tất cả, thì mỗi ngày trôi qua, hàng triệu giáo viên và học sinh đều phải dạy và học giống hệt nhau, với những cảm xúc và yêu cầu giống hệt nhau. Khi đó chỉ là diễn, không có cách nào thật được.

- Chúng ta vừa điểm sơ sơ lại những biểu hiện không thật của nền giáo dục nước nhà, chắc chắn chúng ta sẽ phải bàn tới những phương án có thể thực hiện để nó thật hơn. Nhưng để tránh những tranh luận không đáng có, chúng ta cần chốt với nhau một khái niệm về cái thật. Theo anh, trong giáo dục, thế nào là thật?

- Cái này khó đấy nhé, vì nó là vấn đề triết học. Nhưng có thể hiểu đơn giản thế này: Chúng ta có tối thiểu hai thế giới. Một là thế giới khách quan ở bên ngoài, ví dụ như trời, biển, núi, mây, bàn, ghế… Và hai là một thế giới chủ quan ở bên trong tâm trí của chúng ta. Để cho đơn giản, trong cuộc trò chuyện này, chúng ta giới hạn thế giới nó là nhận thức. Một vấn đề chỉ được coi là thật khi cái ở bên trong và cái ở bên ngoài trùng khớp với nhau. Tức là, chúng ta chỉ chạm vào sự thật khi sự vật hiện tượng ở trong nhận thức và trong thế giới bên ngoài trùng khít với nhau. Chừng nào nó còn vênh thì còn chưa thật.

Nếu chúng ta nói rằng học sinh của chúng ta rất giỏi, rất thông minh thì đấy là cái nhận thức của chúng ta. Nhưng ở thế giới khách quan bên ngoài, họ có giỏi thật, có thông minh thật hay không? Nếu bảo chúng ta giỏi như thế, xuất sắc như thế, có nhiều nhân tài như thế thì suy cho cùng chúng ta phải làm ra được một điều gì đó đáng kể chứ. Nhưng ở trên tất cả các lĩnh vực từ văn hóa, khoa học, kĩ thuật, kinh doanh… chúng ta đều rất thiếu những con người như thế.

- Tôi cũng tán thành quan niệm của anh về việc phải hiểu cái thật trong mối tương tác giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài của một hoặc một tập hợp các chủ thể. Nhưng có thể dùng những thước đo nào để đánh giá tương đối chính xác về mối tương tác này đây?

- Thông thường, trong giáo dục, người ta sẽ nói tới thước đo điểm số. Song, như đã nói lúc đầu, tôi cho rằng điểm số chỉ là một thước đo rất phiến diện. Vì điểm số không thể chạm được vào rung động của học sinh, không thể chạm được vào mơ ước của học sinh, không thể chạm vào tình yêu thương hay ý chí vươn lên của học sinh. Cùng lắm điểm số chỉ đo được những gì học sinh biết ở thời điểm hiện tại, nhưng con người ở hiện tại khác hoàn toàn so với con người ở 20, 30 năm sau.

Mà cái giáo dục hướng đến, con người mà hệ thống giáo dục đào tạo ra, lại chỉ thực sự phát huy tác dụng ở 20, 30 năm sau, khi những học sinh lớp 1 năm nay thực sự bước vào đời và gánh vác trách nhiệm xã hội.

Vì thế, chúng ta phải thừa nhận là nếu chỉ dựa trên điểm số thì sẽ không thể xây dựng một thước đo nào có thể đo lường một cách chính xác sự trưởng thành của học sinh. Thống nhất như vậy thì mới có thể tìm ra các cách đánh giá thật hơn, tức cách thi thật hơn, từ đó thúc đẩy việc học thật, để có được nhân tài thật.

Giờ hãy thử hình dung chúng ta đang đứng trước một học sinh 6 tuổi, 8 tuổi chẳng hạn, chúng ta sẽ phải hình dung trước rằng 20-30 năm sau thì em học sinh đó có thể trở thành một kĩ sư, một doanh nhân, một nhà hoạt động xã hội, một chính trị gia... Nếu mình hình dung đến những điều đó thì mình sẽ có những khuyến khích, những động viên, những nâng đỡ, những dẫn dắt để các em trở thành những con người đó.

Đó là những con người giỏi giang hơn, xuất chúng hơn những người lớn đang dạy họ. Giúp cho học sinh trở thành những người giỏi hơn chính mình thì mới là giáo dục. Còn nếu chúng ta chỉ rập khuôn đánh giá theo kiểu: Em là học sinh 6 tuổi, 8 tuổi ngồi đây, em biết đọc biết viết chưa, em được mấy điểm môn Toán, mấy điểm môn Tiếng Anh… thì chúng ta đang bó hẹp lại hành trình giáo dục của cả thầy và trò.

- Tức là thước đo ở đây phải là một tầm nhìn, một dự báo dài hạn?

- Vâng! Khi tôi nói những điều trên đây thì chính những giáo viên do tôi quản lí cũng bất ngờ. Họ thừa nhận rằng trước đó họ không nghĩ như thế. Họ nghĩ rằng khi mình ra một đề bài, giúp học sinh hiểu được một dàn ý, và sau đó học sinh nhớ được, thi được điểm cao thì có nghĩa là mình đang dạy thật - học thật. Nhưng như tôi đã nói ở trên, đấy là dạy học sinh nghĩ, hiểu và sống bằng cảm xúc của người khác, tiêu chuẩn của người khác, chứ đâu phải là cảm xúc thật, sự trưởng thành thật của các em.

Dạy kiểu này, học kiểu này nên làm bài xong là quên hết, thi xong là quên hết, vì xét về bản chất, nó không phải là học thật. Nó là học hộ, học cho xong. Xong rồi thì quên đi để còn học môn khác để mà thi tiếp. Giáo dục vì thế, thay vì là một hành trình đào luyện để trưởng thành, lại suy thoái thành một chu trình học để thi. Còn thi để làm gì thì chẳng ai quan tâm, ngoài việc để lấy điểm.

- Khi sự không thật được tích tụ dần dần qua năm tháng, con người buộc phải gồng mình hoặc gò mình theo những tiêu chuẩn mà có thể là không tương thích với con người bên trong của mình thì sẽ rất nguy hiểm. Bởi đến một lúc nào đó mọi thứ sẽ vỡ ra, và con người sẽ rơi vào những bi kịch tinh thần không dễ gì giải quyết. Anh đã thấy ai rơi vào những bi kịch này chưa?

- Rất nhiều! Khi cái mình tưởng, hoặc kì vọng, lại không ăn khớp với thực tế. Tôi nhớ những người bạn cũ của tôi ngày ấy học trường chuyên, đạt giải quốc gia… Và tất cả đều nghĩ bạn ấy là người giỏi. Nhưng thực tế rất có thể không phải là như vậy. Thi giỏi, đạt điểm cao rất có thể chỉ là giỏi ghi nhớ và giỏi thi cử mà thôi.

Trong rất nhiều trường hợp cái giỏi kiểu ấy chẳng liên quan tí ti nào đến chuyện nhân tài cả. Khổ nỗi, tất cả những người xung quanh đều nghĩ bạn ấy là nhân tài. Đã đạt giải quốc gia thì đích thị là nhân tài quốc gia rồi. Cho nên bạn ấy cứ phải gồng mình lên để sống, và cuối cùng thất bại vì chính sự gồng mình đó. Có những người thậm chí còn bị trầm cảm.

- Tôi cũng có một người bạn từng rơi vào khủng hoảng dạng này. Tôi thấy rất tội nghiệp cho bạn mình và thật sự có nhiều lúc tôi thầm trách những người đã từng luyện bạn mình theo đúng kiểu “luyện gà” với mục đích phải làm sao thắng được tất cả các kì thi. Liệu sự thầm trách của tôi có quá đà không, theo anh?

- Không! Nhưng tôi hiểu hai mặt của câu chuyện này: Bản thân những người đó, do được đào tạo trong một guồng quay như thế, với các tiêu chuẩn đánh giá như thế, nên họ tin như thế là đúng. Khi mình đạt giải quốc gia hay quốc tế thì mình đúng là nhân tài quốc gia hay quốc tế thật.

Còn mặt thứ hai liên quan đến vấn đề lợi ích của những người liên quan: Khi giáo viên luyện thi giỏi, học sinh của họ đạt giải cấp tỉnh, cấp thành phố, cấp quốc gia thì họ sẽ được khen ngợi, được trao thưởng, được tăng lương, rồi từ đó sẽ có nhiều người đến xin họ luyện thi hơn. Người được giải cũng lại được hưởng các ưu đãi đặc biệt. Chu trình khép kín như thế, nên guồng quay cứ tiếp tục.

Đến đây, chúng ta thấy lại xuất hiện câu chuyện chính sách. Chính sách của chúng ta như thế, tiêu chuẩn đánh giá thế nào, mà lại khuyến khích người ta đi theo con đường đó? Cho nên có một nghịch lí mà tôi phải nói thật với anh, đó là khi tôi đi làm việc, thấy giáo viên nào giới thiệu mình là giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia là bản thân tôi có chút e dè đấy nhé.

Tôi nghĩ trong một hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập, chỉ nhấn đến việc học để thi, chạy theo những cái không thật, mà anh lại trở thành những người rất giỏi trong hệ thống đó, thì anh có giỏi thật không? Anh nghĩ rằng mình giỏi, nhưng có khi anh lại là người đang phá hủy tâm hồn và tương lai của người trẻ một cách rất ghê gớm mà anh không hề biết.

[...]

- Anh từng học ngành hóa học và vật lí, nhưng rồi anh bỏ tất cả để đi làm giáo dục. Đấy có phải là quá trình anh đi tìm con người thật của mình không?

- Vâng! Đó chính là hành trình thay đổi để tìm ra chính mình, từ đó sống thật với mình. Ngày xưa trong giáo dục phổ thông và giáo dục đại học, tôi không được dạy những điều này, cho nên tôi nghĩ rằng mình phải mất thời gian tìm tòi và trả một cái giá đắt. Tôi nhớ một cột mốc khiến mình tìm ra đúng con người mình, đó là vào lúc 1 giờ ngày 23/ 5/ 2011, trong sự bế tắc và đau khổ, tôi buột miệng nói “chấp ngã thị phi”. Ngay lập tức, tôi thấy mình được giải phóng. Thì ra, tất cả những bế tắc và đau khổ của tôi chỉ là chuyện chấp, ngã, thị phi của chính mình và của cuộc đời mà tôi không thoát ra được. Tôi lập tức quyết định bỏ mọi công việc đã làm ở nước ngoài để trở về sống ở Việt Nam, làm điều mình muốn, đi đường mình thích.

- Anh đi trên con đường đó được 10 năm rồi, đã tìm ra rất nhiều phần thật trong con người mình rồi. Liệu thời gian tới anh còn tiếp tục cuộc tìm kiếm nữa không?

- Trong 10 năm qua, tôi cũng đã thử và sai rất nhiều đấy chứ. Nhưng tôi bình an và hạnh phúc. Trên hành trình sống này, với tôi, điều quan trọng nhất là đã tìm ra con đường, và biết mình là ai trên con đường đó. Khi chúng ta tìm ra con đường thì những sai lầm và bất trắc trên đường đi sẽ không làm chúng ta thay đổi.

Phan Đăng/NXB Kim Đồng

Nguồn Znews: https://zingnews.vn/hay-song-that-roi-moi-nghi-den-viec-hoc-that-thi-that-post1367085.html