Hiếm có nơi nào trên thế giới mà doanh nghiệp phải trả giá vốn cao như ở Việt Nam
Thực tế hiếm có nơi nào trên thế giới mà các doanh nghiệp phải trả giá vốn (lãi suất) cao như ở Việt Nam – thường là gấp 2-3 lần các nền kinh tế thị trường 'bình thường' trên thế giới.
Những chia sẻ này được PGS.TS Trần Đình Thiên, thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ nêu ra tại phiên thảo luận tăng cường nội lực, khơi thông nguồn lực của Diễn đàn kinh tế- xã hội Việt Nam 2023 do Quốc hội tổ chức ngày 19/9.
Theo chuyên gia này, sau 3 năm trải qua đại dịch Covid-19 và vượt qua khó khăn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững, tạo được đà và thế tăng trưởng – phát triển tích cực. Các con số phản ánh thành tích tăng trưởng – ổn định kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài, đặt trong sự so sánh quốc tế, là minh chứng tốt cho nhận định này.
Ví von nền kinh tế Việt Nam với “ngôi sao ngược gió”, chuyên gia này cho rằng, năm 2022, nền kinh tế có thể coi như đã lập nên kỳ tích khi tăng trưởng ấn tượng trên 8%. Nhưng nghịch lý tăng trưởng cao, lạm phát thấp lại đang gây hiệu ứng ngược, khiến nền kinh tế và các doanh nghiệp nội địa gặp khó khăn.
Ông Thiên chỉ ra 4 nghịch lý trong quá trình phát triển của nền kinh tế: Doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành; Tăng trưởng GDP cao nhưng lạm phát thấp; Lạm phát thấp nhưng lãi suất cao; Nhiều doanh nghiệp "đói vốn" nhưng lâm vào tình thế "không thể, không dám và không cần" vay vốn, tùy theo hoàn cảnh mỗi doanh nghiệp.
Đi sâu vào phân tích, ông cho hay: Nền kinh tế "khát vốn" nhưng lại khó hấp thụ vốn. Minh chứng đến từ giải ngân đầu tư công, tăng trưởng tín dụng… Về đầu tư công, hết tháng 8/2023, giải ngân mới đạt 39,6% kế hoạch; mức tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 5,5% trong khi mục tiêu cả năm là tăng 14%.
Trước tình hình đó, ngành ngân hàng cũng làm điều "chưa từng thấy": 4 lần hạ lãi suất, áp dụng nhiều giải pháp nới lỏng điều kiện vay vốn, cho dù áp lực nợ xấu, lạm phát, tỷ giá hối đoái và cả áp lực "phải đẩy mạnh cho vay" tiếp tục tăng.
Với nhận định "Doanh nghiệp Việt Nam giỏi chống chịu, sống dai nhưng chậm lớn, khó trưởng thành", PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng không hẳn là nghịch lý, thậm chí, nó còn thuận lý lịch sử, giống như nhận định "ai giỏi chịu khổ thì khó trở thành giàu". Đối với lực lượng doanh nghiệp Việt, tuy gắn với quá trình chuyển đổi kinh tế chưa lâu, song có những đặc điểm phát triển khác thường. Một mặt, đó là những doanh nghiệp có năng lực chống chịu và sinh tồn phi thường.
Bằng chứng là thực tế hiếm có nơi nào trên thế giới mà các doanh nghiệp phải trả giá vốn (lãi suất) cao như ở Việt Nam – thường là gấp 2-3 lần các nền kinh tế thị trường "bình thường" trên thế giới.
Câu hỏi đặt ra là tại sao với năng lực "chống chịu" và "trụ hạng" hiếm có như vậy mà đa số doanh nghiệp Việt mãi cứ là những thực thể nhỏ bé và yếu kém, cứ "chậm lớn", "khó lớn", "ngại lớn", khi "li ti hóa" trở thành xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của doanh nghiệp Việt, mặc dù chúng là một trong những thành tố quan trọng nhất cấu thành "nội lực", quyết định sự phát triển nền kinh tế Việt Nam?
"Nếu đo sự phát triển doanh nghiệp theo logic "chạy tiếp sức", sẽ thấy vấn đề tuổi thọ của doanh nghiệp Việt là đáng lo ngại. Bởi theo thống kê chính thức, hàng năm, số doanh nghiệp "rút khỏi thị trường" xấp xỉ 70-75% số "đăng ký thành lập". Đây là một tỷ lệ không bình thường. Nó hàm ý số doanh nghiệp Việt "sống thọ" không nhiều. Một bộ phận lớn doanh nghiệp "chưa kịp lớn" đã "ra đi", TS Trần Đình Thiên nói.
Ông Thiên kết luận: Tình trạng ách tắc lưu thông các nguồn lực là căn nguyên "bất động hóa" các nguồn lực, làm cho chúng không thể chuyển hóa thành "động lực phát triển", dẫn tới chỗ cơ thể kinh tế bị suy yếu, bị tổn thương và bất ổn.
Cho rằng vấn đề mấu chốt của kinh tế Việt Nam hiện nay chính là “thông mạch" để giải phóng các nguồn lực, tạo động lực mạnh và mới cho tăng trưởng và phát triển, ông Thiên cho rằng, để giải quyết nhiệm vụ đó, định hướng ưu tiên được nhằm vào chính là phát triển đúng hướng và đúng cách các thị trường; xây dựng một bộ máy quản trị và điều hành phát triển thông minh, biết dựa vào thị trường và có trách nhiệm.
Bên cạnh đó, để bảo đảm lưu thông các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường, cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin – cho”, “hành chính”; Ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường, đặc biệt là các thị trường “đầu vào”, tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (cạnh tranh). Các thị trường đầu vào càng đồng bộ, hiệu quả phát triển càng cao.