Hiệu quả từ những mô hình đô thị giảm nhựa

WWF-Việt Nam và các thành phố tiên phong triển khai mô hình quản lý tốt hơn chất thải nhựa dựa trên phương pháp tiếp cận 5T là tiết giảm, tái chế, tái sử dụng, truyền thông, tăng cường quản lý.

Hội LHPN xã Tịnh Long, thành phố Quảng Ngãi đã phát các giỏ nhựa miễn phí cho hội viên để phân loại rác thải. (Ảnh: Đinh Hương/TTXVN)

Hội LHPN xã Tịnh Long, thành phố Quảng Ngãi đã phát các giỏ nhựa miễn phí cho hội viên để phân loại rác thải. (Ảnh: Đinh Hương/TTXVN)

Chương trình Đô thị giảm nhựa là một sáng kiến của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) triển khai ở cấp toàn cầu và Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tham gia.

Tại Việt Nam, với mục tiêu giảm 30% lượng rác thải nhựa thất thoát ra môi trường vào năm 2025, tại địa bàn thí điểm và không còn rác nhựa trong thiên nhiên vào năm 2030, WWF-Việt Nam cùng các thành phố tiên phong xây dựng và triển khai mô hình quản lý tốt hơn chất thải nhựa dựa trên phương pháp tiếp cận 5T (tiết giảm, tái chế, tái sử dụng, truyền thông, tăng cường quản lý).

Sau gần 5 năm triển khai tại 10 địa phương gồm thành phố Phú Quốc, Rạch Giá (Kiên Giang), quận Thanh Khê (Đà Nẵng), thành phố Tuy Hòa (Phú Yên), thành phố Tân An (Long An), thành phố Hà Tĩnh (tỉnh Hà Tĩnh), huyện Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), thành phố Đồng Hới (Quảng Bình), thành phố Huế và huyện A Lưới (Huế), WWF-Việt Nam ghi nhận 6 mô hình có hiệu quả cao, không chỉ góp phần quản lý rác thải nhựa hiệu quả hơn mà còn nâng cao nhận thức cộng đồng, thúc đẩy hành vi tiêu dùng bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Xóa điểm nóng và can thiệp tránh tái nhiễm tại vịnh Vũng Rô

Mô hình “Xóa điểm nóng và can thiệp tránh tái nhiễm” tại vịnh Vũng Rô (thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) đạt 93,8% điểm mục tiêu, thể hiện hiệu quả vượt trội trong cải thiện chất lượng môi trường biển và nâng cao năng suất nuôi trồng thủy sản.

Mô hình tập trung vào việc xác định và xử lý các khu vực ô nhiễm nghiêm trọng, triển khai các biện pháp phòng ngừa tái nhiễm nhằm duy trì sự ổn định lâu dài của hệ sinh thái. Nhờ đó, chất lượng nước biển được cải thiện đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản phát triển bền vững.

Bên cạnh việc xử lý môi trường, mô hình còn chú trọng đến việc nâng cao nhận thức và kỹ năng quản lý môi trường cho cộng đồng ngư dân và các hộ nuôi trồng thủy sản.

Sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương không chỉ giúp mô hình đạt được hiệu quả nhanh chóng mà còn đảm bảo tính bền vững trong dài hạn.

WWF-Việt Nam đánh giá cao tiềm năng của mô hình trong việc tiếp cận các thị trường trong và ngoài nước với các sản phẩm thủy sản sạch, đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng cao.

Điều này không chỉ mở ra cơ hội nâng cao giá trị kinh tế cho sản phẩm địa phương mà còn góp phần xây dựng thương hiệu thủy sản sạch của Phú Yên trên bản đồ xuất khẩu.

Trong tương lai, việc tích hợp các công nghệ giám sát môi trường hiện đại và xây dựng các chính sách ưu đãi cho các hộ nuôi trồng thủy sản xanh sẽ là những bước đi cần thiết để đảm bảo mô hình phát triển bền vững và hiệu quả hơn nữa.

Chợ phân loại rác và ủ phân từ rác hữu cơ: Tạo sinh kế xanh cho cộng đồng

Mô hình “Chợ phân loại rác và ủ phân từ rác hữu cơ” tại Tuy Hòa (Phú Yên) và Hà Tĩnh đạt từ 78-88% mục tiêu đề ra. Thông qua việc phân loại rác tại nguồn và chuyển hóa rác hữu cơ thành phân bón, mô hình không chỉ giảm tải đáng kể lượng rác thải ra môi trường mà còn mang lại giá trị kinh tế thiết thực từ các sản phẩm tái chế.

Việc áp dụng quy trình phân loại-thu gom-xử lý rác hữu cơ đã giúp các khu chợ ở Tuy Hòa và Hà Tĩnh giảm đáng kể lượng rác hữu cơ bị thải ra bãi chôn lấp hoặc môi trường tự nhiên.

Qua đó góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, hạn chế phát thải khí nhà kính từ rác thải hữu cơ phân hủy không kiểm soát, đồng thời cải thiện vệ sinh môi trường tại các chợ.

Việc ủ phân từ rác hữu cơ tạo ra nguồn phân bón tự nhiên, giàu dinh dưỡng cho cây trồng.

Sản phẩm phân bón này không chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng tại địa phương mà còn có thể được thương mại hóa, tạo thêm nguồn thu nhập cho tiểu thương và các hộ dân tham gia mô hình, mở ra cơ hội phát triển kinh tế tuần hoàn, giúp cộng đồng tiếp cận với các giải pháp sinh kế xanh và bền vững.

Một trong những lợi ích quan trọng nhất của mô hình là sự thay đổi trong nhận thức, hành vi của tiểu thương và người dân. Từ chỗ coi rác thải là gánh nặng, nhiều tiểu thương đã hiểu rõ giá trị của việc phân loại rác hữu cơ và tích cực tham gia vào quy trình thu gom, ủ phân, tạo hiệu ứng lan tỏa trong cộng đồng, thúc đẩy ý thức bảo vệ môi trường từ cấp độ cá nhân đến tập thể.

Vận động ngư dân mang rác vào bờ: Phát triển bền vững ngư nghiệp và du lịch

Mô hình “Vận động ngư dân mang rác vào bờ” tại thành phố Đồng Hới (Quảng Bình) đạt 83% mục tiêu đề ra, thể hiện rõ rệt tác động tích cực đến môi trường biển và cộng đồng ngư dân địa phương.

Thông qua việc khuyến khích ngư dân thu gom rác thải nhựa trong quá trình đánh bắt và mang về bờ để xử lý, mô hình giúp giảm đáng kể lượng rác trôi nổi trên biển, góp phần bảo vệ hệ sinh thái biển và cải thiện chất lượng môi trường sống cho các loài sinh vật biển.

Không chỉ dừng lại ở việc làm sạch biển, mô hình còn mang lại giá trị cộng đồng khi rác tái chế từ hoạt động thu gom được bán để xây dựng quỹ tình thương, hỗ trợ các ngư dân có hoàn cảnh khó khăn, tạo động lực mạnh mẽ để ngư dân tham gia tích cực hơn vào hoạt động bảo vệ môi trường.

Mô hình cũng đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngành du lịch biển khi các bãi biển và vùng biển Đồng Hới sạch sẽ hơn, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Phân loại rác, xử lý rác hữu cơ và ứng dụng IMO: Giải pháp kỹ thuật đơn giản nhưng hiệu quả

Mô hình “Phân loại rác, xử lý rác hữu cơ và ứng dụng IMO” (vi sinh bản địa) tại thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang) đạt 75% điểm mục tiêu, khẳng định tính hiệu quả và khả năng thích nghi với bối cảnh quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại địa phương.

Đây là mô hình tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ vi sinh bản địa vào quy trình xử lý rác hữu cơ ngay tại hộ gia đình, giúp giảm thiểu đáng kể lượng rác thải ra môi trường và hạn chế việc sử dụng các hóa chất tẩy rửa độc hại.

Công nghệ IMO dựa trên việc sử dụng các vi sinh vật có sẵn trong tự nhiên để thúc đẩy quá trình phân hủy chất hữu cơ một cách tự nhiên và an toàn. Người dân có thể dễ dàng áp dụng quy trình này bằng cách thu gom rác hữu cơ hằng ngày, phân loại và xử lý trực tiếp tại nhà với sự hỗ trợ của chế phẩm vi sinh.

Quá trình giúp giảm lượng rác thải phải vận chuyển đến các bãi chôn lấp hoặc cơ sở xử lý tập trung, tạo ra phân bón hữu cơ giàu dinh dưỡng cho cây trồng.

Áp dụng công nghệ IMO, lượng rác hữu cơ thải ra môi trường từ các hộ gia đình tại thành phố Rạch Giá đã giảm đáng kể, góp phần giảm tải áp lực lên hệ thống thu gom và xử lý rác thải đô thị.

Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các đô thị ven biển như Rạch Giá đang phải đối mặt với thách thức ngày càng lớn từ vấn đề quản lý rác thải và ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, mô hình cũng tạo ra một nguồn phân hữu cơ tự nhiên, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp sạch tại địa phương.

Các hộ gia đình có thể sử dụng phân bón hữu cơ này cho vườn rau, cây cảnh hoặc thương mại hóa sản phẩm để tăng thêm thu nhập. Đây là bước tiến quan trọng trong việc phát triển kinh tế tuần hoàn tại cộng đồng dân cư.

Tái sử dụng bạt cũ: Kết hợp giữa giá trị xã hội và kinh tế

Mô hình “Tái sử dụng bạt cũ” tại thành phố Rạch Giá (Kiên Giang) đạt 70% điểm mục tiêu, nổi bật nhờ sự kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và tạo giá trị kinh tế - xã hội.

Thông qua việc thu gom các tấm bạt đã qua sử dụng từ chợ, công trình xây dựng hoặc sự kiện, mô hình tái chế thành các sản phẩm hữu ích như túi xách, áo mưa, tấm phủ hoặc vật dụng gia đình.

Qua đó không chỉ giúp giảm lượng rác thải nhựa, vải không phân hủy ra môi trường mà còn tiết kiệm chi phí thu gom và mua nguyên vật liệu mới.

Điểm sáng của mô hình là khả năng tạo việc làm cho phụ nữ nội trợ, người lớn tuổi và người thu nhập thấp. Tham gia vào hoạt động tái chế, họ không chỉ có thêm nguồn thu nhập mà còn góp phần lan tỏa nhận thức về tiêu dùng bền vững trong cộng đồng. Các sản phẩm từ bạt tái chế có tính độc đáo, sáng tạo, thậm chí có tiềm năng phát triển thành mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch hoặc xuất khẩu, từ đó mở rộng giá trị kinh tế.

Bình hoa an sinh - Ngôi nhà xanh: Đưa sản phẩm tái chế nhựa vào đời sống

Mô hình “Bình hoa an sinh-Ngôi nhà xanh” tại quận Thanh Khê (Đà Nẵng) đạt 70% điểm mục tiêu, thể hiện rõ hiệu quả trong việc giảm thiểu rác thải nhựa và nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường.

Mô hình tập trung huy động các tổ chức xã hội, đặc biệt là hội phụ nữ tham gia phân loại và tái chế rác thải nhựa tại nguồn. Các sản phẩm tái chế như bình hoa, chậu cây hoặc đồ trang trí không chỉ góp phần làm đẹp không gian sống mà còn tạo nguồn thu để hỗ trợ các hoạt động an sinh xã hội địa phương.

Điểm mạnh của mô hình là khả năng kết nối cộng đồng và tạo động lực tham gia từ nhiều nhóm đối tượng khác nhau, từ người dân địa phương đến các tổ chức xã hội.

Tái chế rác nhựa thành các sản phẩm hữu ích giúp nâng cao giá trị của rác thải, giảm lượng rác nhựa trôi nổi trong môi trường. Mô hình cũng góp phần thúc đẩy tinh thần sáng tạo, khuyến khích người dân tìm kiếm các giải pháp bền vững để giảm thiểu rác thải trong cuộc sống hàng ngày.

Bà Nguyễn Thị Diệu Thúy - Giám đốc chương trình giảm nhựa, WWF-Việt Nam đánh giá, với cách tiếp cận linh hoạt, bài bản, chủ đề bao quát, thúc đẩy sự tham gia chủ động của các đối tác địa phương; đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ thể thực hiện, tiếp nhận và duy trì các kết quả đạt được, Chương trình Đô thị giảm nhựa tạo nền móng vững chắc và các bài học kinh nghiệm có giá trị để địa phương tiếp tục nhân rộng./.

(TTXVN/Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/hieu-qua-tu-nhung-mo-hinh-do-thi-giam-nhua-post1020317.vnp