Hiệu ứng nhân rộng của RCEP đối với dòng chảy thương mại ASEAN
Khi các nhà lãnh đạo cấp cao RCEP tuyên bố kết thúc đàm phán dựa trên lời văn của Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vào tháng 11/2019 đã mở đường cho các nền kinh tế của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tăng cường hội nhập kinh tế với 5 đối tác đối thoại là Australia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và New Zealand.
Sự hội nhập kinh tế của ASEAN với các đối tác đối thoại là một cột mốc quan trọng trong việc hiện thực hóa Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục đích hội nhập ASEAN vào nền kinh tế toàn cầu.
Dưới góc độ xem xét những thay đổi nhỏ trong các công cụ chính sách thương mại theo khuôn khổ RCEP có thể sẽ có tác động đáng kể đến dòng chảy thương mại trong ASEAN, Trung tâm Nghiên cứu ASEAN đã đánh giá ba động lực chính trong RCEP có thể dẫn đến sự tăng trưởng của thương mại hàng hóa ASEAN. Những động lực chính này bao gồm sự bao quát toàn diện của RCEP, quy mô thị trường lớn và mối liên kết kinh tế mạnh mẽ thông qua thương mại và đầu tư.
Thứ nhất, RCEP bao gồm các vấn đề thương mại và phi thương mại toàn diện có thể tăng cường tự do hóa hơn nữa thương mại và đầu tư trong ASEAN. Hiệp định bao gồm 20 chương, mở rộng tham vọng của ASEAN vượt ra ngoài giới hạn của thương mại và chính sách thương mại, bao gồm cả các vấn đề phi thương mại. Một số trong những nội dung này, chẳng hạn như quy tắc xuất xứ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, thương mại dịch vụ, thương mại điện tử và sở hữu trí tuệ, đã được đưa vào Kế hoạch Tổng thể AEC 2025, nhưng RCEP có nhiều khả năng đi xa hơn các định hướng đã nêu của AEC.
Trên thực tế, các nước ASEAN đang thực hiện Quy tắc hướng dẫn về các biện pháp phi thuế quan để loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, nhưng vẫn chưa đạt được nhiều tiến bộ trong việc này. Các cam kết được thực hiện theo RCEP sẽ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và doanh nghiệp trong ASEAN bằng cách giảm các chi phí không cần thiết đối với các hạn chế thương mại ở biên giới và đằng sau đường biên giới, tăng cường thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng thuế quan ưu đãi theo quy tắc xuất xứ chung, và kích thích sự đổi mới với sự bảo vệ mạnh mẽ hơn về quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, RCEP mang đến cơ hội dưới dạng một thị trường khổng lồ trị giá 24,8 nghìn tỷ USD và hơn 2,3 tỷ người. Năm 2018, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của RCEP (trên cơ sở ngang giá sức mua) lớn hơn so với các khối thương mại khác như Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Ở châu Á, tổng GDP của RCEP gấp khoảng 5 lần so với các thành viên của Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA), và gấp khoảng ba lần so với các nước châu Á khác, bao gồm cả Ấn Độ.
Thứ ba, ASEAN và các đối tác đối thoại có mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ thông qua thương mại và đầu tư. Năm 2018, tổng thương mại hàng hóa của ASEAN - tức là nhập khẩu cộng với xuất khẩu - đứng ở mức 2,8 nghìn tỷ USD, mà 34% trong số đó được tính bằng thương mại song phương giữa ASEAN và năm đối tác đối thoại và 23% được tính bằng thương mại nội khối ASEAN. Hơn nữa, tổng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN được ghi nhận ở mức 152,8 tỷ USD vào năm 2018 - 25% trong số đó có nguồn gốc từ các đối tác đối thoại và 15% từ các nước ASEAN. Tổng hợp lại, các giá trị thương mại và đầu tư nội bộ RCEP đã chiếm 57% tổng thương mại và 40% tổng dòng vốn FDI vào ASEAN.
Quy mô thị trường lớn của RCEP cùng với mối liên kết đầu tư và thương mại mạnh mẽ giữa ASEAN và các đối tác đối thoại cho thấy rằng bất kỳ sự giảm thiểu nhỏ nào trong các rào cản thương mại có thể sẽ làm tăng lợi nhuận đáng kể từ thương mại. Những lợi ích này sau đó sẽ chuyển thành số lượng lớn hơn các công việc tạo ra, và do đó dẫn đến tăng GDP và giảm nghèo ở các nền kinh tế mới nổi của ASEAN như Campuchia, Lào và Myanmar.
Để hiện thực hóa lợi ích kinh tế từ RCEP, các nhà hoạch định chính sách cần đảm bảo rằng các điều khoản thương mại trong RCEP sâu hơn so với các FTA của ASEAN hiện tại, cụ thể là AFTA và FTA ASEAN + 1 như ASEAN- Trung Quốc, ASEAN-Australia và New Zealand, ASEAN-Nhật Bản, ASEAN-Hàn Quốc. Đối với trường hợp của AFTA, các quốc gia thành viên đã xác định các lĩnh vực nhạy cảm trong đó họ không loại bỏ hoàn toàn thuế quan, đặc biệt là đối với gạo. Càng nhiều lĩnh vực nhạy cảm được tính đến thì càng ít lợi ích kinh tế thu được từ việc loại bỏ thuế quan theo FTA.
Mặc dù toàn văn RCEP vẫn chưa được công bố, nhưng có ba lý do để tin rằng RCEP sẽ sâu hơn các FTA ASEAN hiện có. Đầu tiên, RCEP sẽ nổi lên như một thỏa thuận toàn khu vực nhằm củng cố các FTA ASEAN hiện có và do đó làm giảm tác động tiêu cực của các quy tắc xuất xứ phức tạp đối với dòng chảy thương mại. Thứ hai, ngưỡng giảm thuế quan trong RCEP được so sánh tương đương với một FTA khu vực khác như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hướng tới loại bỏ 99% thuế quan. Thứ ba, RCEP cũng là một FTA và dường như việc cắt giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan và các rào cản thương mại dịch vụ giữa các quốc gia RCEP sẽ đầy đủ và tổng quát hơn so với AFTA và các FTA ASEAN + 1 hiện tại. RCEP cũng sẽ miễn trừ một số lĩnh vực nhạy cảm cho tự do hóa thương mại và đầu tư, nhưng đó là lĩnh vực nào và bao nhiêu trong số các lĩnh vực nhạy cảm này được tính đến thì cần đợi khi hiệp định được ký kết dự kiến vào cuối năm 2020.