Hình thành Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia, tạo động lực mới cho an ninh năng lượng
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 15/10. Trong đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 328/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là chương trình hành động toàn diện nhằm cụ thể hóa các định hướng chiến lược.

Đề án Trung tâm Lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất đến nay đã được Bộ Công thương hoàn thiện
Mục tiêu của Chương trình nhằm thể chế hóa và thực hiện đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 70-NQ/TW); bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống người dân, bảo vệ môi trường sinh thái.
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng trong tình hình mới. Theo kế hoạch, đến năm 2030, tổng cung năng lượng sơ cấp của Việt Nam đạt khoảng 150 - 170 triệu tấn dầu quy đổi, tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng khoảng 120 - 130 triệu tấn, với tỷ lệ tiết kiệm năng lượng đạt 8 - 10% và giảm phát thải khí nhà kính từ 15 - 35% so với kịch bản phát triển thông thường.
Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, doanh nghiệp năng lượng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và nhân dân; hoàn thiện thể chế, chính sách, phát triển hạ tầng năng lượng hiện đại, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng phó với biến đổi khí hậu; thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro; tập trung huy động mọi nguồn lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng; tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng; tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Hình thành Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia tích hợp đa lĩnh vực. Một trong những điểm nhấn của Chương trình là chủ trương xây dựng Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia tại các địa phương có lợi thế, tích hợp các lĩnh vực khí, khí hóa lỏng, điện, lọc – hóa dầu và năng lượng tái tạo.
Để phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng, Chính phủ yêu cầu các cơ quan chức năng liên quan phải xây dựng kịch bản, lộ trình thực hiện cụ thể bảo đảm năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đa dạng hóa nguồn cung năng lượng; có cơ chế ưu tiên cho việc chủ động phát triển năng lượng trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu, ưu tiên tăng cường khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng trong nước; triển khai xây dựng và hình thành Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia, đồng bộ với chính sách về khai thác, bao tiêu sản lượng, giá khí tự nhiên trong nước.
Đồng thời, tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án năng lượng trọng điểm; tăng cường dự trữ năng lượng chiến lược, lưu trữ năng lượng; xây dựng ngành năng lượng và phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng; phát triển hạ tầng năng lượng hiện đại, thông minh, bền vững, kết nối khu vực và quốc tế hiệu quả...
Thúc đẩy chuyển đổi xanh và áp dụng thuế carbon. Song song với phát triển nguồn cung, Chính phủ xác định tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường là trụ cột then chốt. Chương trình đặt mục tiêu áp dụng chính sách thuế carbon đối với nhiên liệu hóa thạch, thúc đẩy chuyển đổi các nhà máy nhiệt điện than sang sử dụng khí tự nhiên, hydrogen, amoniac, nhiên liệu sinh khối; từng bước loại bỏ thiết bị, phương tiện hiệu suất thấp, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ xanh, hiệu quả năng lượng cao.
Các bộ, ngành sẽ quy định chỉ tiêu bắt buộc về tiết kiệm năng lượng, đồng thời triển khai đồng bộ các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính, phù hợp với cam kết quốc tế và điều kiện phát triển của Việt Nam.
Tạo đột phá trong khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số lĩnh vực năng lượng. Để thúc đẩy công nghiệp năng lượng phát triển bền vững, Chính phủ yêu cầu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) tối thiểu 2% GDP của ngành năng lượng, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp năng lượng nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng công nghệ mới; có cơ chế cho phép các trung tâm đổi mới sáng tạo được huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân để đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, dự án đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng sạch.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số trong khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối và sử dụng năng lượng; nghiên cứu, phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng. Phát triển hệ thống lưới điện thông minh, hệ thống quản lý năng lượng thông minh trong công nghiệp, giao thông và xây dựng.
Hình thành cơ chế liên kết giữa các nhà khoa học, cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học và công nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng. Xây dựng đề án đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng, đưa vào danh mục ngành đào tạo trọng điểm. Đào tạo tối thiểu 25.000 - 35.000 kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt ưu tiên cho ngành năng lượng hạt nhân. Có chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút chuyên gia là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo và năng lượng mới.
Diệu Phương