Hình tượng rắn trong văn hóa Bắc Giang

Mỗi loài vật đều đi vào đời sống văn hóa của con người bằng nhiều hình thức và biểu hiện khác nhau. Chúng mang những ý nghĩa biểu trưng nhất định cho văn hóa, tín ngưỡng, tập tục, lối sống hay đặc tính của một dân tộc, một vùng miền, một con người. Trong số những loài vật ấy có lẽ con rắn mang ý nghĩa biểu trưng phong phú nhất và từ lâu đã đi vào đời sống tâm linh của nhiều dân tộc, trong đó có các dân tộc sinh sống trên vùng đất Bắc Giang.

Có thể nói, rắn là hình tượng khá quen thuộc trong đời sống văn hóa của người dân Bắc Giang. Trong tín ngưỡng dân gian ở nhiều làng quê có hình tượng rắn qua tục thờ gắn liền với nhân vật lịch sử đã có nhiều công lao với dân với nước. Mặt khác, rắn còn là biểu tượng thủy thần mang nguồn nước cho cư dân nông nghiệp. Trong lễ cầu mùa hay lễ cấp sắc của người Dao, đồng bào cúng Long thần để cầu nguồn nước cho mùa màng tươi tốt. Trong các trò chơi dân gian của trẻ em lại có trò chơi đuổi bắt, rồng rắn lên mây. Đây còn là trò chơi liên quan đến nghi thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp. Trong phong thủy, linh vật rắn đại diện cho nguồn năng lượng mạnh mẽ và bí ẩn. Nó được xem là vị thần bảo hộ, mang lại sự thịnh vượng và bình an cho gia chủ.

 Kiểm tra sắc phong tại đền Nhẫm Lũng.

Kiểm tra sắc phong tại đền Nhẫm Lũng.

Có thể thấy, tục thờ rắn là một tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ với lớp ý nghĩa chính là tục thờ thủy thần. Tục thờ này mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Ở Bắc Giang, đền thờ thần rắn xuất hiện dọc theo các con sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Qua thời gian, hình tượng rắn dường như đã được phủ lên một lớp văn hóa và đồng nhất với các nhân vật lịch sử có nhiều công trạng với dân với nước. Có thể tìm thấy trong sự tích về đức Thánh Tam Giang ở các ngôi đình, đền dọc đôi bờ sông Cầu, sông Thương… Hằng năm tại các vùng đất này vẫn duy trì tục thờ gắn với các lễ hội truyền thống để tôn vinh những vị thần có công với dân với nước, mang giá trị bản sắc văn hóa độc đáo của vùng đất, con người trên quê hương Bắc Giang.

Tục thờ Bà mẹ hang Non và tam vị Đại Vương ở đền Hang Non và đền Nhẫm Lũng (Lục Nam)

Tương truyền thời Hùng Vương có người con gái ở thôn An Phú đã ướm thử bàn chân vào dấu chân trên đá bên Giếng Trúc, dưới chân núi Khám bờ Bắc sông Lục Nam. Thời gian sau nàng thụ thai và sinh được một bọc ba trứng nở ra ba con rắn. Nàng vẫn lầm lũi nuôi con mặc dù con mình là rắn. Mỗi khi mẹ vắng nhà, ba con rắn lại lột xác thành người để giúp mẹ việc nhà.

 Cửa đền Hang Non, xã Khám Lạng (Lục Nam).

Cửa đền Hang Non, xã Khám Lạng (Lục Nam).

Về truyền tích này, sách "Lục Nam địa chí" ghi: “Ở bờ sông Lục Nam thuộc xã Khám Lạng có ngôi miếu thờ tam vị Đại vương, phía trước có nhiều vực sâu bên dưới thì lắm thủy tộc, trên có thạch bàn. Tương truyền thời Hùng Vương có một ngư phủ cầu thần núi Yên Phú, sinh được một người con gái, năm hai mươi tuổi ra sông tắm bị rồng cuốn rồi có mang sinh một bọc được ba con trai, lớn lên họ rất khôi ngô. Vào canh ba đêm nọ, mưa gió nổi lên, họ biến thành ba con rắn chui vào núi Lãm Sơn biến mất. Người mẹ thương khóc đi tìm chỉ thấy hai đuôi, vì thế sau gọi một ông Dài hai ông Cộc. Chỗ hang núi các con hóa thông ra sông Lục Nam thành ba cái vực, còn chỗ bà mẹ mất gọi là vực Dẫm”. Bên cạnh núi Khám hiện còn cả một quần thể di tích gồm đền Trung, đền Thượng và đền Hạ; cạnh sông Lục Nam có đền Nhẫm Lũng thờ Bà mẹ hang Non và tam vị Đại vương. Đây là ngôi đền cổ phản ánh khá rõ về hình tượng rắn trong tín ngưỡng dân gian của vùng đất này.

Đền Nhẫm Lũng được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa, tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Giá trị nổi bật nhất của di tích là các tài liệu, hiện vật và tín ngưỡng về người được thờ ở đền. Tương truyền, đền Nhẫm Lũng xưa có đến 36 đạo sắc phong từ đời Lê đến thời Nguyễn ban tặng cho các vị thần. Hiện nhà đền còn lưu giữ được bốn đạo sắc, bốn tấm bia đá thời Lê và thời Nguyễn cùng nhiều đồ thờ tự khác. Hằng năm tại quần thể di tích này, địa phương mở hội vào các ngày 13 đến 15 tháng Ba âm lịch với nhiều trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, độc đáo nhất vẫn là đám rước rầm rộ diễn tả cảnh Bà mẹ hang Non đến tìm con.

Tục thờ đức Thánh Tam Giang

Theo thần tích của các làng thờ đức Thánh Tam Giang tập trung ở Hiệp Hòa, Việt Yên, TP Bắc Giang, Lục Nam... và dọc ven sông Cầu, sông Thương “từ thượng chí Đu Đổm tới hạ chí Lục Đầu giang” (có hơn 300 làng thờ) thì đức Thánh Tam Giang vốn xuất thân từ loài thủy tộc. Tương truyền có người con gái họ Phùng, hiệu Từ Nhan đêm nằm mộng tắm ở sông Lục Đầu thấy rồng quấn quanh mình mà có thai, rồi sinh ra một bọc 5 con gọi là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Đạm Nương…

Nhìn vào tục thờ qua tín ngưỡng dân gian ở Bắc Giang có thể thấy rõ xuất xứ của các vị thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài con rắn, đến tên hiệu của các vị thần cũng thấy rất rõ bản chất là một vị thần sông nước. Gạt bỏ yếu tố huyền thoại xung quanh các nhân vật qua tín ngưỡng dân gian sẽ còn lại lớp giá trị truyền thống lịch sử văn hóa mà ở đó có những nhân vật lịch sử cụ thể, có công lao với dân, với nước.

Sự tích của đức Thánh Tam Giang gắn liền với thời kỳ lịch sử cụ thể, thời Triệu Quang Phục đánh giặc Lương ở nửa cuối thế kỷ VI. Đến thời Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt, thánh Tam Giang đã âm phù giúp nhà Lý đánh thắng quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, lại âm phù giúp nhà Trần đánh thắng quân Nguyên. Vì có nhiều công lao nên nhân dân dọc theo sông Cầu, sông Thương và những nơi các ông từng đóng quân đánh giặc đã lập đền thờ làm Thần và phong các ông là Thành Hoàng làng. Các triều vua về sau đời Lê, Nguyễn đều có sắc phong cao nhất cho Thần là “Tam Giang thượng đẳng thần”. Hằng năm tại các làng thờ đức Thánh Tam Giang dọc ven sông Cầu và sông Thương đều mở hội ôn lại sự tích và chiến công của quân dân đất Việt.

Hình tượng thần rắn trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Giang

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hình tượng rắn được biểu hiện rõ nhất khi được đồng nhất với Quan Tam Phủ và Quan đệ Ngũ Tuần Tranh. Theo bản văn dẫn sự tích các vị quan lớn vốn là con vua Bát Hải động đình có nguồn gốc sinh ra từ hình hài một con rắn, thủy thần gắn với sông nước. Những nhân vật này đều có cuộc đời huyền thoại, trải qua các thế hệ được dân gian phủ lên nhiều lớp văn hóa. Trong đó lớp văn hóa cốt lõi gắn liền với hình tượng rắn và đã được đồng nhất với nhân vật lịch sử cụ thể dưới triều Hùng Duệ Vương. Họ là những người rất tài giỏi có công giúp vua Hùng đánh dẹp quân Thục mang lại nền hòa bình cho đất nước. Các triều đại Lê - Nguyễn sau này đều có sắc phong cho các vị thần và lập đình, đền tôn thờ.

Như vậy, nhìn vào tục thờ qua tín ngưỡng dân gian ở Bắc Giang có thể thấy rõ xuất xứ của các vị thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài con rắn, đến tên hiệu của các vị thần cũng thấy rất rõ bản chất là một vị thần sông nước. Đó là lớp nghĩa cổ nhất mà truyền thuyết được phủ lên nhiều tầng lớp văn hóa dân gian sau này cũng không làm mờ đi lớp nghĩa cổ ban đầu. Gạt bỏ yếu tố huyền thoại xung quanh các nhân vật sẽ còn lại lớp giá trị truyền thống lịch sử văn hóa mà ở đó có những nhân vật lịch sử cụ thể, có công lao với dân với nước. Qua đó còn khẳng định chân giá trị lịch sử của dân tộc nhằm tôn vinh, ghi nhớ công ơn những người đi trước có công lao mở mang bờ cõi, gìn giữ chủ quyền độc lập dân tộc.

Đồng Ngọc Dưỡng

Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.vn/hinh-tuong-ran-trong-van-hoa-bac-giang-postid411549.bbg