Hồ sơ tấn thảm kịch Ranger
Ngày 15/2/1982, giàn khoan Ranger được xem là 'thành phố nổi trên biển lớn nhất thế giới' đã bị lật rồi chìm bởi một con sóng cao 20m, giết chết toàn bộ 84 thành viên trên giàn. Các cuộc điều tra sau đó đã cho thấy những sai sót trong thiết kế, thi công là nguồn gốc dẫn đến thảm họa...
Diễn tiến thảm kịch
Sở hữu bởi Công ty Ocean Drilling & Exploration Company Inc, trụ sở tại thành phố New Orleans, bang Mississpi, Mỹ, và do Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries ở Hiroshima, Nhật Bản, thiết kế, thi công, giàn khoan Ranger dài 121m, rộng 80m, cao 103m. Nó có 12 chiếc neo nặng tổng cộng 20 tấn còn tổng trọng lượng của cả giàn là 25.000 tấn.
Ranger nổi trên 2 chiếc phao dài 120m và chìm dưới mặt nước 24m. Về khả năng hoạt động, nó có thể khoan ở độ sâu tối đa 7.600m, được xem là giàn khoan dầu bán chìm lớn nhất thế giới cho đến nay, có thể chịu đựng các điều kiện cực kỳ khắc nghiệt trên biển, bao gồm sức gió 190 km/h, sóng biển cao 34m. Hồ sơ đăng kiểm cho phép “Ranger hoạt động không hạn chế ở tất cả mọi vùng biển”.
Tháng 11/1980, Ranger với 84 thành viên di chuyển đến biển Grand Banks thuộc địa phận tỉnh Newfoundland, Canada để thực hiện hợp đồng khoan cho Công ty Dầu khí Mobil Oil of Canada tại mỏ Hybernia. Trước đó, nó đã hoạt động ngoài khơi bờ biển Alaska, New Jersey, Mỹ và Ireland. Trong số 84 thành viên trên giàn, có 56 người Canada, phần lớn đều là kỹ sư chuyên về khoan thăm dò dầu khí.
Ngày 26/11/1981, Ranger bắt đầu khoan giếng J-34, là giếng thứ ba ở mỏ dầu Hibernia. Cùng hoạt động với nó còn có 2 giàn khoan khác nhỏ hơn là giàn Sedco 706, nằm cách Ranger 13,7 km về phía Bắc Đông Bắc và giàn Zapata Ugland ở phía Bắc, cách Ranger 30,9 km.
Sáng 14/2/1982, đúng vào ngày Lễ Tình nhân, Công ty Nordco Ltd, chịu trách nhiệm dự báo thời tiết trên Đại Tây Dương gửi một thông báo khẩn cấp đến cả 3 giàn, cảnh báo về một cơn bão lớn kèm theo lốc xoáy đang hướng về vùng biển Grand Banks. Theo quy định, mỗi khi có bão, các giàn khoan sẽ phải treo ống khoan ở đầu giếng dưới biển và ngắt kết nối ống nâng khỏi thiết bị khoan. Tuy nhiên, do cơn bão ập đến rất nhanh, sóng cao từ 17 đến 20m nên các kỹ sư trên giàn Ranger buộc phải cắt ống khoan. Đến 2 giờ chiều, họ ngắt kết nối ống nâng.
5 giờ chiều, phòng điều khiển trung tâm báo cáo trưởng giàn Ranger rằng đèn chiếu ở cửa sổ và cửa nóc bị sóng đánh tung vì nó chỉ được thiết kế ở độ cao 8,5m. Trong lúc ấy, giàn Sedco 706 gần đó bị một cơn sóng lớn làm hư hỏng một số vật dụng trên boong, thuyền cứu sinh bị nước cuốn mất.
7 giờ tối, giàn khoan Sedco 706 và giàn Zapata Ugland nghe được những cuộc điện đàm nội bộ của giàn Ranger. Theo đó, một con sóng lớn cao 20m đã đánh thẳng vào Ranger, làm vỡ các cửa sổ phòng điều khiển chấn lưu khiến bảng điều khiển bị thấm nước, các mạch điện mất khả năng hoạt động. Vẫn theo những cuộc điện đàm nội bộ được Sedco 706 và Zapata Ugland nghe thấy, những người ở phòng điều khiển chấn lưu trên giàn Ranger phát hiện đèn báo trên bảng mô phỏng nhấp nháy từ màu đỏ sang xanh lục và ngược lại khiến họ tin rằng các van trong phao chìm dưới nước đang tự đóng mở. Do không tìm được nguyên nhân nên 8 giờ tối, họ cắt nguồn điện dẫn đến bàn điều khiển để buộc các van đóng lại.
11 giờ khuya, chẳng hiểu vì lý do gì mà các nhân viên trong phòng điều khiển lại mở nguồn điện. Các cuộc điều tra về sau cho thấy chính việc mở lại nguồn điện cung cấp cho bảng điều khiển đã khiến các van ở mũi phao chìm mở ra. Nước tràn vào khiến cả giàn khoan nặng 25.000 tấn chúi xuống.
1 giờ 52 phút sáng 15/2, một cuộc gọi cấp cứu được gửi đi từ Ranger kèm theo đó là danh sách những hư hỏng nghiêm trọng. Đây là cuộc liên lạc đầu tiên của Ranger kể từ khi cơn bão xảy ra. Ngay lập tức, Cơ quan cứu hộ Canada điều tàu M/V Seaforth Highlander cùng 4 máy bay trực thăng tìm cách tiếp cận. Bên cạnh đó, 2 tàu dự phòng là M/V Boltentor và M/V Nordertor thuộc 2 giàn khoan Sedco 706 và Zapata Ugland cũng được lệnh lên đường hỗ trợ. Tuy nhiên, do cường độ của cơn bão quá mạnh, không một chiếc tàu cũng như không một máy bay trực thăng nào đến được giàn khoan Ranger ở khoảng cách đủ để thực hiện việc cứu hộ an toàn.
2 giờ sáng, Ranger truyền đi thông điệp cuối cùng của mình: "Sẽ không còn liên lạc vô tuyến từ Ranger. Chúng tôi sẽ tìm cách đến các trạm cứu hộ”. Và, mặc dù tất cả các giàn khoan đều được cung cấp sổ tay hướng dẫn thủ tục khẩn cấp - trong đó nêu cụ thể từng chi tiết của quy trình sơ tán - nhưng đến nay vẫn chưa rõ việc thoát hiểm trên giàn Ranger đã được thực hiện như thế nào.
Các khảo sát về sau, nơi giàn khoan Ranger chìm đã chứng minh rằng ít nhất một thuyền cứu sinh được hạ thủy với khoảng 36 người. Các nhân chứng trên tàu M/V Seaforth Highlander nói họ đã nhìn thấy khoảng 20 thành viên xuống biển cùng một lúc trên một thuyền cứu sinh nhưng do sóng quá lớn, họ không thể đến gần những người này. Mất khoảng nửa tiếng, khi tàu Highlander còn cách thuyền cứu sinh chừng 30m, những người trên tàu ném xuống một cuộn dây và 2 người trên thuyền túm được sợi dây. Thế nhưng, ngay lúc ấy, một con sóng lớn ập đến, chiếc thuyền cứu sinh lật úp. Khi sóng tan, tàu Highlander không nhìn thấy một người nào. Tất cả chết vì hạ thân nhiệt hoặc chết đuối, riêng Ranger còn nổi được khoảng 70 phút trước khi chìm xuống đáy biển lúc 3 giờ 10.
Sáng hôm sau, ngày 16/2, khi bão tan, tất cả những gì còn lại của Ranger chỉ là vài chiếc áo phao cùng 1 thuyền cứu sinh lật úp. 1 tuần sau đó, lần lượt 22 thi thể được vớt lên. Những người còn lại không bao giờ được tìm thấy. Cũng trong ngày này, một tàu container của Liên Xô là chiếc Mekhanik Tarasov cũng gặp nạn bởi cơn bão, cách giàn khoan Ranger 120km về phía Đông. Bị sóng gió vùi dập trong nhiều tiếng đồng hồ, Mekhanik Tarasov chìm xuống đấy biển, mang theo 32 sinh mạng trong tổng số 37 thành viên thủy thủ đoàn. Lloyd Major, phụ trách radio y tế trên giàn khoan Ranger, người đã rời giàn 4 ngày trước khi thảm họa xảy ra, nói: “Mỗi phiên làm việc của tôi kéo dài 3 tuần. Khi lên trực thăng trở về đất liền, tôi không nghĩ nó chìm chỉ vì một cơn bão, bởi lẽ trước đó, Ranger đã từng chịu 6 cơn bão cường độ mạnh. Lúc truyền hình đưa cảnh nhiều thi thể được trục vớt, tôi đã khóc”.
6 tuần tiếp theo, bằng phương pháp siêu âm định vị, các đội cứu hộ của hải quân Mỹ và hải quân Canada mô tả “giàn khoan Ranger nằm ở độ sâu 90m nhưng các trụ thép đỡ ống khoan chỉ cách mặt nước 30m. Nó lật úp, quay ngược đầu về phía giếng khoan, cách giếng khoan 148m về phía Đông Nam, bao quanh bởi những mảnh vỡ lớn”. Các cuộc khảo sát tiếp theo bằng tàu ngầm điều khiển từ xa cũng cho thấy Ranger bị hư hỏng nặng nề nhưng không phát hiện một tử thi nào trong phòng ngủ của các thành viên cũng như trong phòng điều khiển, phòng ăn, nhà bếp hoặc phòng chiếu phim. Các nhà điều tra cho rằng họ đã bị cá mập trắng ăn thịt.
Lỗi do con người
Sau thảm họa Ranger, Ủy ban điều tra của Canada đã dành 2 năm để xem xét nguyên nhân dẫn đến sự cố. Bản kết luận cho thấy, các thành viên trên giàn khoan đã không được đào tạo để xử lý kịp thời các bất trắc do thời tiết gây nên; trang thiết bị không đầy đủ, nhất là quần áo chống thấm nước trong điều kiện nhiệt độ nước biển ở vùng này trung bình là 16 độ C, không có quy trình cho các tàu hỗ trợ tiếp cận giàn để cứu hộ. Bên cạnh đó, các trực thăng đều đã trên 20 năm tuổi, không an toàn khi bay biển và nhất là căn cứ trực thăng được đặt tại Gander, khoảng cách quá xa để có thể bay đến giàn khoan Ranger tìm kiếm cứu nạn rồi bay về mà không cần tiếp thêm nhiên liệu. Bản báo cáo còn nêu lên những sai sót trong thiết kế, thi công, đặc biệt là phòng điều khiển các khoang dằn bởi lẽ đèn chiếu ở cửa sổ và cửa nóc bị sóng đánh vỡ đã khiến nước biển xâm nhập phòng điều khiển chấn lưu, dẫn đến hệ thống điều khiển khoang dằn tự mở do đoản mạch. Điều này đã khiến Ranger mất cân bằng và lật chỉ bởi một con sóng lớn.
Với Ủy ban điều tra hàng hải Cảnh sát biển Mỹ, thảm họa được tóm tắt bằng một chuỗi sự kiện: Một cơn sóng lớn ập vào giàn khoan khiến một cửa sổ bật tung, nước biển tràn vào phòng điều khiển chấn lưu, vô hiệu hóa đèn chiếu sáng, một số van trong hệ thống điều khiển chấn lưu đã mở do đoản mạch hoặc do bàn tay con người, dẫn đến hiện tượng không thể bơm các két phía trước bằng phương pháp kiểm soát dằn thông thường vì độ lớn của các két nước tạo ra khoảng cách thẳng đứng với các máy bơm, vượt quá lực hút...
Tháng 6/1983, vì khung thép đỡ ống khoan nằm ở độ sâu 30m dưới mặt nước, gây nguy hiểm cho tàu bè khi đi ngang qua, Công ty Wijsmuller Salvage của Hà Lan đã được thuê để kéo nó đến vùng nước sâu hơn. Tuy nhiên, trong quá trình thao tác, ngày 20/6, 2 thợ lặn thiệt mạng do một vụ nổ dưới nước khi tiến hành cắt những khung thép có thể cản trở việc di dời. Chưa hết, ngày 26/2 lại có thêm 1 thợ lặn thiệt mạng khi một khối thép trên giàn khoan rơi trúng vào lúc anh ta chuẩn bị trồi lên mặt nước.
Gần như không có một hình ảnh nào chụp giàn khoan Ranger ngay và trong khi xảy ra thảm họa bởi lẽ nguyên tắc bảo mật trong lĩnh vực khoan thăm dò dầu khí ở Newfounland, cấm tất cả mọi thành viên mang máy ảnh lên giàn. Lloyd Major nói: “Blackmore là trợ lý của tôi. Anh ấy chết đuối và cũng là thi thể đầu tiên được tìm thấy. Tôi chỉ có một bức ảnh duy nhất chụp Blackmore và Warren Haverty - cũng là thợ giàn khoan và cũng đã chết - lúc còn ở trên bờ. Đó là một hoài niệm”.
Về phía thân nhân của những người tử nạn, sau gần 2 năm tranh tụng, Công ty Dầu khí Mobil Oil of Canada và Công ty Ocean Drilling and Exploration Company đã đồng ý bồi thường 444.000 USD cho mỗi gia đình có người chết nhưng còn độc thân. Riêng với 30 góa phụ, mỗi người trong số họ nhận được 800.000 USD. Cuối năm 1984, Mobil Oil Canada nộp đơn kiện Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries ở Hiroshima, Nhật Bản, là nơi đã đóng giàn khoan Ranger với số tiền bồi thường lên đến 250 triệu USD vì đã “không tuân thủ các quy định bắt buộc về mặt thiết kế, thi công giàn khoan dầu ngoài biển...”.
Cuối cùng, sau nhiều thỏa thuận diễn ra bên ngoài tòa án, Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries đồng ý bồi thường cho Mobil Oil Canada 20 triệu USD. Việc trục vớt Ranger kéo dài suốt 6 năm sau đó nhưng phần lớn vẫn vĩnh viễn nằm dưới đáy biển...
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/ho-so-tan-tham-kich-ranger-i702860/