Hoa vàng sau bão Yagi - Bài 1: Sức sống mới ở thôn Làng Nủ
Một năm sau bão Yagi, ký ức tang thương vẫn còn ở thôn Làng Nủ, nhưng từ đổ nát, một hành trình hồi sinh kiên cường đã bắt đầu, gieo mầm hy vọng nơi vùng cao.

Khoảng một năm trước, khi bão Yagi quét qua, nhóm PV báo Pháp Luật TP.HCM vượt qua những cung đường trắc trở, hiểm nguy để đến thôn Làng Nủ. Hình ảnh những đôi mắt đỏ hoe, những bàn tay rớm máu, bất lực, hay tiếng gọi xé lòng trong đêm mưa lạnh vẫn còn ám ảnh chúng tôi. Và cũng chính ký ức ấy thôi thúc chúng tôi quay lại nơi này vào một năm sau nhưng không phải để nhắc lại nỗi đau mà là niềm hy vọng nhìn thấy sự hồi sinh.
Con đường dẫn vào thôn Làng Nủ hôm nay đã không còn bị chia cắt, đồi cũng không còn dấu hiệu của sạt lở và những con suối chạy ngang cũng đã hiền hòa trở lại. Tại nhà sinh hoạt cộng đồng thôn cũ, hiện rất nhiều bức ảnh được trưng bày ghi dấu lại thời điểm kinh hoàng khi thảm họa ập đến nơi đây. Bên cạnh những bức ảnh đau thương thì nhiều khoảnh khắc thể hiện tình quân dân, nghĩa đồng bào, sự quật cường của người dân cũng được lưu lại.

Rạng sáng 10-9-2024, khi sương mù còn phủ kín núi rừng, một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đỉnh Con Voi. Chỉ vài giây sau, đất đá ùn ùn đổ xuống, cuốn phăng 40 nóc nhà của thôn Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên cũ).
Nhớ lại ký ức kinh hoàng khi ấy, chị Hoàng Thị Cảnh chậm rãi kể: “Đó là tiếng nổ mà suốt đời tôi không bao giờ quên, nó không giống sấm, không giống bom, mà là tiếng của cả ngọn núi đang vỡ tung”.

Chị Cảnh vẫn chưa quên buổi sáng định mệnh ấy. Trong khi ba mẹ con chị lên đồi xem nước lũ, chồng chị là anh Hoàng Văn Giới quyết định ở lại trong căn nhà nhỏ dưới chân đồi. Khi tiếng nổ vang lên, đất đá bắn tung, 3 mẹ con hốt hoảng chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, kéo nhau cố chạy ngược dòng lũ nhưng vẫn bị cuốn trôi, may mắn được một ngọn đồi thoai thoải giữ lại.
Nhắc lại chuyện cũ, trái tim người phụ nữ 38 tuổi này vẫn thắt lại rồi đập bình bịch như thảm họa chỉ vừa mới xảy ra. “Khi tôi ngoi lên khỏi đống bùn đất, nhìn thấy con, ôm con, cả người tôi mềm nhũn”- chị Cảnh nhớ lại.
Nhưng anh Giới - người đàn ông trụ cột của gia đình thì không may mắn được như thế.
Khi ba mẹ con chị Cảnh đã chuyển vào khu nhà tạm để ở được một tuần thì đến những ngày cuối cùng trong công cuộc tìm kiếm của các lực lượng cứu hộ, ngày 8-10, tức 29 ngày sau cơn lũ dữ, chị Cảnh mới tìm được chồng.
“Tôi đã không nhận ra anh ấy”- chị Cảnh nghẹn ngào kể lại giây phút tìm thấy thi thể chồng đã không còn nguyên vẹn, tại xã Tân Lập, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (cũ) - nơi cách Làng Nủ 54km. Một khoảng cách đủ để thấy được sự tàn khốc của trận lũ lịch sử.

Ngay sáng hôm sau, ở rìa thôn thôn làng Nủ, bếp dã chiến đỏ lửa suốt ngày đêm. Phụ nữ già trẻ thay nhau nấu cơm, phát cháo, pha nước gừng cho lực lượng cứu hộ. Những đứa trẻ được đưa về trường tạm trú, nơi thầy cô vừa dạy chữ vừa dỗ dành để chúng bớt hoảng loạn. Nhiều đêm mưa lạnh, tiếng bộ đàm, tiếng khóc, tiếng gọi tên người thân hòa lẫn khiến không khí vừa căng thẳng mà cũng vừa tang thương.
Sau biến cố, các đoàn chuyên gia địa chất lên núi khảo sát. Bản đồ nguy cơ sạt trượt được khoanh vẽ; những vệt nứt cũ chằng chịt như vết sẹo khổng lồ của núi rừng. Chính quyền địa phương cùng bộ đội, công an dựng tạm nhà bạt, đưa người dân khỏi vùng nguy hiểm, đồng thời thống kê thiệt hại để khẩn cấp hỗ trợ. “Cái khó nhất lúc ấy không chỉ là lương thực, chỗ ở mà còn là vực dậy tinh thần. Ai cũng mất mát, ai cũng cần được nắm tay”- một cán bộ xã nhớ lại.

Những ngày ảm đạm ấy cũng là lúc tình người tỏa sáng. Từ miền xuôi tới vùng cao, hàng ngàn thùng quần áo, gạo mắm, thuốc men, cả những chiếc cặp sách mới… vượt đèo lên thôn Làng Nủ. Một nhóm thanh niên tình nguyện dựng “góc chơi” cho trẻ, chiếc xích đu bằng tre kẽo kẹt như kéo nỗi sợ ra khỏi mắt chúng.
Giữa bùn đất, một cụ bà móm mém dúi vào tay PV gói cốm non: “Của nhà mới giã lại, không còn nhiều nhưng vẫn thơm, ăn cho ấm”. Sợi dây vô hình của đồng bào cứ thế nối dài, giữ người ở lại đứng lên khỏi đổ nát.
Chỉ ba tháng sau biến cố, 40 căn nhà sàn hai tầng mang phong cách kiến trúc truyền thống ở khu tái định cư Đồi Sim hoàn thành. Cột bê tông, tường gỗ, mái ngói, phía sau là bể chứa nước, phía trước là hiên rộng phơi ngô phơi quế - những chi tiết đều được tính toán theo tập quán sống của người Tày. Hệ thống thoát nước, cột thu lôi, đường điện mới, loa cảnh báo mưa lớn được đặt dọc tuyến.


Ngày nhận chìa khóa nhà, bà Hoàng Thị Bóng ôm cuốn sổ đỏ khóc nức nở: “Tôi từng nghĩ hai mẹ con chẳng còn chỗ để đi. Giờ có mái nhà mang tên mình, tôi như được sống lại”. Con trai bà trồng hoa quanh hiên để mẹ bớt nhớ chồng. Những khóm sim tím đã kịp nở như một lời an ủi dịu dàng.
Buổi tối, cả thôn quây quần ở nhà văn hóa. Bữa cơm cộng đồng trở thành nếp mới: ai có rau góp rau, ai có cá góp cá, có người còn góp cả...nụ cười. Tết vừa rồi, bà con gói bánh, hát then, đánh đàn tính; trẻ con chơi trốn tìm, hò reo đến quên cả giờ ngủ.
Cầm tay PV, chị Đặng Thị Ních, một người mất mẹ chồng, chồng và hai con nói rằng: “Có lúc tôi tạm quên mình đã đau đớn đến thế”. Chị khoe đã mở xe bán nước nhỏ, tham gia lớp thêu rồi trở lại nương quế: “Tôi hiểu mình phải sống thay phần người đã khuất. Nhìn bố chồng gắng gượng, tôi không thể gục ngã”.

Song hành với việc dựng nhà, chính quyền địa phương đã phối hợp các đoàn thể mở lớp “giải tỏa sang chấn” cho phụ nữ và trẻ em. Cán bộ y tế, chuyên gia tâm lý, các sư thầy, linh mục… thay nhau ghé thăm, trò chuyện, hướng dẫn cách chăm sóc giấc ngủ, cách kể lại nỗi đau mà không tự dằn vặt. Những cuốn sổ tay “Thoát hiểm khi mưa lũ, sạt lở” bằng tiếng Việt và tiếng Tày được phát tận tay từng hộ.
Mùa thu của một năm sau sự cố, cùng chung không khí hồi sinh, thầy và trò Trường Tiểu học và THCS số 1 Phúc Khánh bắt đầu năm học mới trong dãy phòng học vừa được sơn sửa khang trang. “Có những đêm, chúng tôi ôm các em nhỏ vào lòng, vừa động viên vừa tắm gội cho các em. Sau thiên tai, thầy cô thực sự là những người mẹ hiền”- thầy hiệu trưởng Phạm Đức Vinh nhấn mạnh.

Ở lớp, Hoàng Anh Quân, con trai chị Cảnh khẽ thì thầm: “Con sẽ học giỏi để thay bố làm chỗ dựa cho mẹ”. Còn Mông Hoàng Thảo Ngọc, sau 50 ngày giành giật sự sống, nay trở lại lớp với ước mơ làm bác sĩ.
Ông Hoàng Văn Diệp, trưởng thôn Làng Nủ, cho biết trong một năm qua, địa phương đã nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp, góp phần từng bước vực dậy tinh thần của người dân sau biến cố. Trên mảnh đất tại Làng Nủ cũ, màu xanh của cây lúa, rặng ngô, cây quế dần xuất hiện trở lại. “Đến nay, phần lớn các hộ gia đình đều đã ổn định, an cư tại khu nhà mới. Nhiều người đi làm thuê ngoài địa phương, một số khác lại tập trung vào trồng trọt tại quỹ đất còn canh tác được”- ông Diệp cho hay.


Một buổi chiều, lớp học đàn tính vang tiếng gảy đầu tiên. Những sợi dây tơ ngân lên, khẽ đưa người nghe đi qua buồn bã. Ở cuối hiên, lũ trẻ đuổi bắt nhau quanh gốc xoan mới trồng. Làng Nủ hôm nay không chỉ hồi sinh bằng mái nhà, ruộng nương mà còn bằng nghị lực, sự sẻ chia và niềm tin. Trên vùng đất từng tang thương, hoa vàng đã nở; trong ánh mắt trẻ thơ, khát vọng ngày mai vẫn rực sáng.

Từ vùng quê trù phú với mỗi vụ lúa nước cho hàng trăm tạ thóc, thôn Làng Nủ bỗng thành “vùng trắng” sau trận lũ quét tháng 9-2024. Người thoát nạn vừa đau thương, vừa đối diện câu hỏi rất đời thường: ngày mai ăn gì, sống ra sao?
Một năm trôi qua, khu tái định cư đã hoàn thành, các nếp nhà sàn khang trang, đường bê tông sáng đèn, lớp học rộn ràng tiếng trẻ. “Cảm giác băn khoăn ở chỗ mới là không tránh khỏi nhưng đa số hộ đã an cư”- ông Hoàng Văn Diệp, trưởng thôn Làng Nủ nói. Dẫu vậy, để thật sự hồi sinh, bà con cần nhiều hơn mái nhà, đó là cần đất canh tác, kế sinh nhai bền vững ngay trên mảnh đất từng tang thương.

Ông Hoàng Văn Diệp cho biết trước lũ, Làng Nủ chủ yếu trồng lúa nước, năng suất khoảng 250 kg thóc/sào, bình quân mỗi nhà 5 tạ/vụ. Nay 7 ha ruộng bị đất đá, rác, gốc rễ lấp dày, “đi bộ cũng khó”.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, khu đất này đang được cải tạo, lấy đất màu từ đồi khác đổ bù, nơi thấp nhất phải nâng 2,5-3 m, chỗ còn lại tối thiểu 60 cm. Khi hoàn thành, đất sẽ giao lại cho dân, quy mô mỗi hộ ước khoảng 3 sào (thay vì 5 sào trước đây) để chuyển sang trồng cây ăn quả theo mùa như táo, cam, bưởi… Tuy nhiên, sau hai tháng thi công, tiến độ mới đạt hơn 20% do mưa kéo dài, đất vừa đổ đã trôi, xe vận chuyển khó vào công trường.
“Nhà cửa cơ bản ổn định, còn khôi phục kinh tế thì cần thêm thời gian. Không thể xong trong một sớm một chiều”- trưởng thôn Làng Nủ nhấn mạnh.
Về chăn nuôi, theo ông Diệp, bà con dự định phát triển chăn nuôi gia cầm và cá. Đồng thời thôn cũng đang khảo sát một số vùng trũng để đào ao vì hiện chưa có mặt nước phù hợp.


Bà Trịnh Thị Duyên, Chủ tịch UBND xã Phúc Khánh, cho biết định hướng tổng thể của xã là khôi phục đất màu ở làng cũ giao lại cho dân làm sinh kế lâu dài, đồng thời nghiên cứu du lịch sinh thái, trải nghiệm gắn với mùa hoa sim, mùa bóc vỏ quế, kết hợp gìn giữ văn hóa Tày. “Chúng tôi mong mảnh đất từng chứng kiến tang thương này sớm kết trái ngọt”- bà Duyên nói bằng giọng điệu phấn khởi và đầy hy vọng.
Đường vào khu tái định cư được mở rộng; chiếc xe bán hàng lưu động đầu tiên đã ghé Đồi Sim vào cuối tuần. Hợp tác xã quế của xã đăng ký cho phụ nữ Làng Nủ học chế biến tinh dầu, làm trà quế, xà phòng thảo dược. “Mình không chỉ bán vỏ tươi nữa, phải thêm khâu chế biến để tăng giá trị”- bà con rì rầm bàn.

Trên nền an cư mới, những nỗ lực nhỏ nhưng bền bỉ đang gom lại thành động lực lớn: lớp thêu đã cho lứa học viên đầu tiên có thu nhập ổn định; tuyến cấp nước riêng sắp hoàn tất; dự án cải tạo 7 ha ruộng dù chậm vẫn kiên trì về đích; kế hoạch đào ao, nuôi cá được tính toán để đa dạng hóa sinh kế. Cùng với đó, phương án liên kết tiêu thụ nông sản, hình thành nhóm hộ trồng cây ăn quả, chăn nuôi gà vịt và làm sản phẩm thủ công đang được xã hỗ trợ thủ tục.
Làng Nủ đã có mái nhà, có tiếng cười học trò mỗi sớm đến lớp. Phần việc còn lại là đất sản xuất, nước sinh hoạt ổn định, chuỗi tiêu thụ nông sản và mô hình nghề phụ đang dần được lấp đầy. Khi những mảnh ghép ấy khớp lại, câu hỏi “Ngày mai sống ra sao?” sẽ có lời đáp ngay trên chính mảnh đất này: an cư, có việc làm, có thu nhập và hy vọng.

Nguồn PLO: https://plo.vn/hoa-vang-sau-bao-yagi-bai-1-suc-song-moi-o-thon-lang-nu-post871342.html