Hoài niệm của một nhà giáo và bước ngoặt mang tính lịch sử đến với Cách mạng
Nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), mời bạn cùng Báo PNVN ngược dòng thời gian về với quãng đời thanh xuân của bà Cao Thị Quế Hương, nguyên Hội trưởng Hội LHPN tỉnh Lâm Đồng, với những lựa chọn mang tính lịch sử nhưng lòng vẫn không nguôi nhớ về những ngày tháng làm cô giáo.

Bà Cao Thị Quế Hương (giữa) trao tặng hiện vật cho Bảo tàng MTTQ Việt Nam, tháng 10/2025
Bà Cao Thị Quế Hương sinh năm 1941 tại Huế. Bà tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, là cô giáo dạy học tại trường Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ và các trường Huỳnh Khương Ninh, Tân Văn, Đức Trí ở Sài Gòn. Bà tham gia hoạt động cách mạng từ tháng 2/1968 trong phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Sài Gòn. Bị địch bắt cầm tù hai lần nhưng bà đều kiên định trung thành với lý tưởng, với tổ chức.
Sau ngày đất nước thống nhất, bà từng giữ các chức vụ: Ủy viên Ban Chấp hành Hội Trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Thường vụ, Hội phó rồi Hội trưởng Hội LHPN tỉnh Lâm Đồng, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng.
Năm 1995, bà nghỉ hưu theo chế độ. Cuộc đời bà là tấm gương tiêu biểu cho sự cống hiến, hy sinh, sự thủy chung, son sắt trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong tình yêu đôi lứa.
Năm nay, tôi đã bước vào tuổi 85, cái tuổi mà người ta thường dành thời gian để nhìn lại quãng đời đã qua, như xem lại một cuốn phim dài với đủ đầy những thước phim đen trắng và cả những gam màu rực rỡ. Ngồi đây, giữa không gian yên bình của thành phố Đà Lạt mờ sương, lòng tôi lại miên man trôi về một thời thanh xuân đã xa, một thời mà lý tưởng và bão tố quyện vào nhau, định hình nên con người tôi.
Đó là câu chuyện về những ngày tôi làm cô giáo, về những lựa chọn đã đưa tôi từ bục giảng thân thương đến với con đường cách mạng gian lao nhưng cũng thật đỗi tự hào.
Mỗi ký ức ùa về, vẹn nguyên như mới hôm qua, là một hoài niệm khắc khoải về một thời không thể nào quên.
Chuyến tàu định mệnh và bục giảng miền Tây Đô
Tháng 6/1967, khi tôi, cô sinh viên Cao Thị Quế Hương, chính thức tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, ban Triết học. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác bồi hồi xen lẫn háo hức khi cầm trên tay tấm bằng tốt nghiệp, đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời với bao dự định. Lúc ấy, Nha học Chánh miền Nam gửi về trường một danh sách các nhiệm sở đang cần giáo sư. Với kết quả tốt nghiệp hạng 5, tôi được quyền lựa chọn sau 4 bạn và trước các bạn khác trong lớp.
Đứng trước danh sách nhiệm sở, có 2 nơi khiến tôi phải đắn đo: Trường Trung học Nông Lâm Súc ở Bảo Lộc, cách Đà Lạt chỉ trăm cây số, và trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm tận Cần Thơ, cách nhà đến hơn 400 cây số. Dù xa xôi, nhưng cái tên "Tây Đô" của một thành phố mới phát triển ở miền Nam đã có một sức hút kỳ lạ với cô gái trẻ là tôi lúc ấy. Ba mẹ không hề can thiệp, để tôi tự lựa chọn con đường cho cuộc đời mình. Và thế là, tôi đã chọn Cần Thơ, một quyết định mà sau này tôi mới nhận ra, chính là chuyến tàu định mệnh của cuộc đời mình.
Tháng 9/1967, tôi chính thức trở thành cô giáo dạy Triết và Công dân tại trường Nữ trung học Đoàn Thị Điểm, một trong những ngôi trường nữ sinh lớn nhất miền Nam bấy giờ.
Tôi lao vào công việc với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ. Tôi không tự biết mình dạy hay hay dở, chỉ nhìn vào những ánh mắt trong veo, chăm chú của các em học sinh, nhìn vào sự im lặng tuyệt đối trong lớp học mà thấy lòng mình thêm tự tin.
Bối cảnh xã hội khi ấy thật đau thương. Chiến tranh mỗi ngày một leo thang, nhất là sau khi quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng năm 1965. Đường phố Sài Gòn và các thành phố khác đầy lính Mỹ, dây kẽm gai và bao cát làm khu quân sự. Đêm đêm, tiếng đại bác từ các vùng ven dội về thành phố xé nát lòng tôi, ngay cả khi đang ngồi trên lớp học. Mỗi ngày, lại có thêm những chiếc quan tài lính ngụy được đưa về các ngõ xóm, thêm những người vợ trẻ chít khăn tang trắng đi đầy đường. Không khí tang thương chết chóc ấy bao trùm, day dứt tâm can mỗi người Việt Nam, nhất là những người trẻ nặng lòng với quê hương, đất nước như chúng tôi.
Nỗi đau ấy thôi thúc tôi phải làm gì đó, dù là nhỏ nhoi. Trong những giờ Công dân, vào cuối buổi chiều, tôi thường chép lên bảng những bài ca yêu nước của phong trào sinh viên Sài Gòn. Tôi cảm nhận được, các em rất thích những giai điệu ấy, chúng như những hạt mầm yêu nước được gieo vào những tâm hồn trong trẻo.

Những bức hình ghi dấu một thời đáng nhớ của bà Cao Thị Quế Hương
Bước ngoặt Mậu Thân và con đường cách mạng
Cái Tết Mậu Thân năm 1968 đã mãi mãi thay đổi cuộc đời tôi. Cuối năm 1967, tôi ghé qua Sài Gòn trước khi về Đà Lạt nghỉ Tết.
Đêm Giao thừa năm ấy, giữa không khí thiêng liêng của đất trời, tôi lén mở chiếc radio nhỏ, dò Đài Giải phóng. Và rồi, một giọng nói ấm áp, quen thuộc vang lên, Bác Hồ đang đọc thơ chúc Tết. Từng câu, từng chữ như một lời hiệu triệu, thấm sâu vào tim gan tôi. Ngay sau đó, tiếng súng của quân Giải phóng đã nổ vang ngay trong lòng thành phố Đà Lạt yên bình. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã bắt đầu.
Sau Tết, khi tình hình tạm yên, tôi phải trở lại Cần Thơ. Nhưng trước khi đi, tôi ghé qua Tổng hội Sinh viên ở số 4 Duy Tân. Chính tại đây, một cuộc gặp gỡ định mệnh đã diễn ra. Qua lời giới thiệu của anh Dương Văn Đầy, một sinh viên Y khoa, tôi đã được gặp anh Ba Triết tức Nguyễn Ngọc Phương, đại diện Hội liên hiệp Sinh viên Giải phóng. Anh đã nói chuyện với tôi về tình hình đất nước, về thế và lực của cách mạng. Rồi anh phân công tôi hoạt động trong giới giáo chức, vận động họ giác ngộ cách mạng. Nhiệm vụ trước mắt là cứ trở về Cần Thơ dạy học, khi nào cần, tổ chức sẽ liên lạc.
Tháng 5/1968, tôi nhận được lá thư mật của anh Ba Triết, nhắn tôi trở lại Sài Gòn. Lợi dụng việc các trường lại tiếp tục nghỉ học vì chiến sự, tôi đã âm thầm bỏ lại bục giảng, bỏ lại những tà áo dài thân thương để bước vào con đường hoạt động bí mật, phụ trách phong trào sinh viên Đại học Văn khoa. Tháng 4/1969, trong một lần về vùng căn cứ học tập, tôi đã vinh dự được kết nạp vào Đảng và sau đó được giao nhiệm vụ Bí thư chi bộ sinh viên Đại học Văn khoa.
Tình yêu, tù đày và sự hy sinh
Trong những năm tháng hoạt động gian khó ấy, giữa tôi và anh Ba Triết đã nảy nở một tình yêu. Chúng tôi đã cùng công tác, đã hiểu và thương yêu nhau, nguyện cùng nhau đi trọn đời vì lý tưởng cách mạng. Chúng tôi đã báo cáo tổ chức, được hai gia đình đồng ý cho làm đám cưới. Chỉ còn 1 tuần nữa thôi là đến ngày vui của chúng tôi... Nhưng ngày 5/3/1970, cả tôi, anh và 20 đồng chí khác, trong đó có cả Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn Huỳnh Tấn Mẫm, đều bị bắt. Đám cưới của chúng tôi đã không bao giờ được tổ chức.
Những ngày tháng trong tù là những ngày tháng bị tra tấn dã man nhưng tất cả chúng tôi đều chịu đựng, không một lời khai báo làm ảnh hưởng đến phong trào công khai bên ngoài. Nhờ áp lực đấu tranh mạnh mẽ của sinh viên, học sinh và nhân dân, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu buộc phải trả tự do cho 10 người, trong đó có tôi. Còn anh Ba Triết và 10 bạn khác vẫn bị giam giữ lại.
Ra tù, tôi lại lao vào các hoạt động phong trào công khai. Để có tiền sinh hoạt và thăm nuôi anh Ba Triết, tôi đã dạy Anh văn tại trường nữ trung học tư thục Đức Trí. Những năm 1971-1972, cuộc sống của tôi là một chuỗi ngày đan xen: Vừa đứng lớp với những bài giảng tiếng Anh, vừa tham gia hội thảo, biểu tình, làm báo, và mỗi tuần 2 lần, sáng thứ Ba và chiều thứ Sáu, đều đặn vào nhà tù Chí Hòa thăm anh. Tình yêu với học trò trong tôi vẫn vẹn nguyên. Tôi lại được nhìn thấy những đôi mắt trong xanh, những tà áo dài trắng trinh nguyên. Tôi tự hào khi biết trường Đức Trí cũng là một cái nôi cách mạng, với nhiều nữ sinh dũng cảm tham gia đấu tranh.
Nhưng rồi, bi kịch lớn nhất đời tôi đã ập đến. Đầu năm 1973, anh Ba Triết hy sinh . Nỗi đau chưa kịp nguôi ngoai thì ngày 17/01/1973, tôi lại bị bắt, bắt đầu chuỗi ngày 27 tháng trời.

Bà Cao Thị Quế Hương tham quan Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tháng 9/2025
Khúc vĩ thanh của một thời sôi động
Ngày 20/4/1975, chỉ 10 ngày trước khi Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, tôi cùng một số chị em đã trốn thoát khỏi trại giam Đức Tu - Biên Hòa, tìm về Vũng Tàu ở ẩn. Ngày 3/5/1975, tôi tìm cách về Sài Gòn, tìm lại đơn vị cũ. Tôi được tổ chức đưa đi kiểm điểm quá trình ở tù và được phân công về công tác tại Hội Trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 7/1978, tôi đến nhận công tác ở Tỉnh Hội Phụ nữ Lâm Đồng, tích cực đi nhiều nơi, vào tận vùng sâu, vùng xa vận động chị em phụ nữ tham gia phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", về nuôi dạy con, về kế hoạch hóa gia đình… Sau đó, tôi chuyển sang công tác Mặt trận cho đến ngày nghỉ hưu.
Giờ đây, khi ngồi nhớ lại cả một quãng đời thanh xuân với những lựa chọn mang tính lịch sử, lòng tôi vẫn không nguôi nhớ về những ngày tháng làm cô giáo. Tôi đã không thể đi trọn con đường sư phạm mà tuổi trẻ đã lựa chọn. Nhưng tôi chưa bao giờ hối tiếc. Tôi đã sống một cuộc đời trọn vẹn với lý tưởng, đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho độc lập, tự do của dân tộc.
Trong sâu thẳm trái tim, tôi vẫn mãi là một cô giáo, vẫn giữ vẹn nguyên tình cảm yêu mến học sinh, yêu mến tuổi trẻ, chỉ là vì nhiệm vụ tổ chức cách mạng phân công mà không được làm một cô giáo cho đến trọn đời.














