Hoàn thiện kịch bản nguồn nước cho các lưu vực sông quan trọng

Sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình và sông Cửu Long, Cục Quản lý tài nguyên nước tiếp tục hoàn thiện 6 kịch bản nguồn nước cho các lưu vực sông quan trọng khác.

Thông tin được ông Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước chia sẻ. Ông Vĩnh cho biết, dự kiến trong tháng 1/2025, Cục Quản lý tài nguyên nước sẽ trình Bộ kịch bản nguồn nước của 6 lưu vực sông.

Việt Nam có tổng diện tích lưu vực sông khoảng 1 triệu km², với 11 hệ thống sông chính, bao gồm các sông lớn như sông Hồng, sông Mê Kông, sông Đồng Nai, và sông Cửu Long.

Việt Nam có tổng diện tích lưu vực sông khoảng 1 triệu km², với 11 hệ thống sông chính, bao gồm các sông lớn như sông Hồng, sông Mê Kông, sông Đồng Nai, và sông Cửu Long.

Cụ thể, các lưu vực sông sẽ bao gồm: Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Hương, Sê San, Srêpôk và Đồng Nai. Dự kiến, Cục sẽ trình Bộ để công bố các kịch bản này trong tháng 1/2025.

Trong quá trình xây dựng các kịch bản nguồn nước này, Cục Quản lý tài nguyên nước đã thành lập Hội đồng thẩm định và tổ chức các cuộc họp để đánh giá các Kịch bản nguồn nước cho từng lưu vực.

Hội đồng đã làm việc chặt chẽ với các đơn vị liên quan để xây dựng các kịch bản cụ thể dựa trên các số liệu nguồn nước quan trọng từ 133 hồ chứa thủy điện và 1.505 hồ chứa thủy lợi.

Các số liệu này bao gồm mực nước, nhu cầu sử dụng nước cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, cũng như các dự báo về khí tượng thủy văn.

Đến nay, Cục đã nhận được 4/5 ý kiến phản hồi từ các đơn vị liên quan, và tất cả đều nhất trí với dự thảo Kịch bản nguồn nước của các lưu vực sông. Cục đã hoàn tất công tác tiếp thu và giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định để hoàn thiện hồ sơ Kịch bản nguồn nước.

Qua đánh giá tình hình nguồn nước tính đến ngày 15/12/2024, Cục đã phát hiện một số lưu vực có nguy cơ thiếu nước cục bộ, đặc biệt là lưu vực sông Sê San và sông Srêpôk. Tuy nhiên, từ cuối tháng 12/2024, lượng mưa đã tăng lên, cải thiện tình hình nguồn nước trên các lưu vực.

Đến ngày 1/1/2025, lượng nước đến các hồ chứa ở hầu hết các lưu vực đã tăng đáng kể. Tuy nhiên, theo đánh giá tổng thể, nguồn nước ở các lưu vực sông vẫn duy trì ở trạng thái bình thường trong mùa cạn năm 2025.

Dù vậy, mỗi lưu vực vẫn có những đặc thù riêng cần lưu ý, cụ thể một số tiểu lưu vực như sông Bắc Giang và Mo Pia thuộc tiểu lưu vực sông Kỳ Cùng có nguy cơ thiếu nước cục bộ. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu hụt mưa, dòng chảy, và thiếu các công trình khai thác, thủy lợi chưa đồng bộ.

Lưu vực sông Mã: Khu vực Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa vẫn có khả năng thiếu nước cục bộ. Nguyên nhân chính là thiếu các công trình khai thác và tích trữ nước, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng đủ nhu cầu.

Lưu vực sông Hương: Một số khu vực có thể gặp tình trạng thiếu nước cục bộ, đặc biệt vào tháng 5, 6/2025. Nguyên nhân là do thiếu các công trình khai thác nước, thiếu nguồn cấp nước, đặc biệt ở đồng bằng ven biển ngoài khu vực Cầu Hai và Phá Tam Giang.

Bên cạnh đó, các hồ chứa như Tả Trạch, Bình Điền, và Hương Điền vào mùa cao điểm (tháng 6, 7) có thể không đủ cung cấp nước cho cả nông nghiệp và thủy điện, làm gia tăng nguy cơ hạn hán.

Lưu vực sông Đồng Nai: Mặc dù tổng thể nguồn nước tại lưu vực này đảm bảo đủ cho nhu cầu sinh hoạt và phát triển kinh tế, một số tiểu lưu vực thượng sông Đồng Nai (đến hồ Đại Ninh, hồ Đồng Nai 3) và lưu vực sông Bé (đến hồ Thác Mơ) vẫn có nguy cơ thiếu nước nếu không được khai thác và sử dụng hợp lý.

Lưu vực sông Sê San: Nguồn nước từ các hồ chứa thủy điện trên sông Sê San hiện tại đáp ứng đủ cho phát điện và xả dòng chảy về hạ du. Tuy nhiên, một số khu vực do thiếu hệ thống cấp nước chủ động từ các hồ chứa thủy lợi vẫn có nguy cơ thiếu nước vào cuối mùa cạn.

Lưu vực sông Srêpôk: Nếu nhu cầu nước phục vụ phát điện tăng cao, hoặc các nhà máy điện phải hoạt động với công suất lớn vào các tháng 4, 5, 6/2025, nguy cơ thiếu hụt nước cho phát điện và xả dòng chảy về hạ du sẽ gia tăng.

Ngoài ra, chỉ có khoảng 20% diện tích cần tưới được bảo đảm bởi hệ thống thủy lợi, phần còn lại dựa vào nguồn nước mưa, nước ngầm và sông suối tự nhiên, nên khi xảy ra nắng nóng kéo dài, sẽ có nguy cơ thiếu nước cục bộ.

Để hoàn thiện kịch bản, lãnh đạo các đơn vị đã đưa ra nhiều giải pháp để ứng phó với tình trạng thiếu nước, bao gồm việc tăng cường chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức để tối ưu hóa hiệu quả của kịch bản nguồn nước.

Bên cạnh đó, các đơn vị đề xuất đẩy mạnh đầu tư và hoàn thiện hệ thống công trình thủy lợi, đặc biệt là ở các khu vực tiềm ẩn nguy cơ thiếu nước cục bộ.

Việc khuyến khích khai thác và sử dụng nguồn nước một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả cũng được các lãnh đạo nhấn mạnh, nhằm tránh lãng phí nguồn tài nguyên quý giá này.

Các cơ quan chức năng cần tiếp tục theo dõi sát sao tình hình nguồn nước trong các tháng tiếp theo, đặc biệt là trong mùa cạn, để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo vệ an toàn nguồn nước cho các mục đích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.

Được biết, việc xây dựng các kịch bản nguồn nước cho các lưu vực sông là công việc hết sức quan trọng, không chỉ giúp dự báo tình hình nguồn nước, mà còn cung cấp các giải pháp ứng phó hiệu quả với tình trạng thiếu nước trong tương lai.

Mặc dù hiện tại tình hình nước ở các lưu vực sông đang ổn định, nhưng với những dự báo về nguy cơ thiếu nước cục bộ và các yếu tố tác động từ biến đổi khí hậu, việc triển khai các giải pháp cải thiện hệ thống thủy lợi và tăng cường chia sẻ thông tin giữa các bên liên quan là vô cùng cần thiết.

Việt Nam có tổng diện tích lưu vực sông khoảng 1 triệu km², với 11 hệ thống sông chính, bao gồm các sông lớn như sông Hồng, sông Mê Kông, sông Đồng Nai, và sông Cửu Long.

Các sông này có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các hoạt động sản xuất, sinh hoạt, và là nguồn nước chủ yếu cho ngành nông nghiệp, thủy điện và công nghiệp.

Theo Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường Châu Trần Vĩnh, trên cơ sở các quy hoạch, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố kịch bản nguồn nước trên hai lưu vực sông lớn và quan trọng là sông Hồng - Thái Bình và sông Cửu Long.

Các kịch bản này sẽ phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên các lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân.

Đồng thời, các kịch bản cũng làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp.

Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên lượng nước phân bổ không đều giữa các mùa trong năm. Vào mùa khô, nhiều khu vực ở miền Trung và miền Nam thiếu nước nghiêm trọng, trong khi mùa mưa lại thường xuyên xảy ra lũ lụt.

Ngoài các nguồn nước mặt, Việt Nam cũng sở hữu các nguồn nước ngầm phong phú, đặc biệt ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, khai thác nước ngầm không hợp lý đã dẫn đến hiện tượng sụt lún và ô nhiễm nguồn nước ngầm ở một số khu vực đô thị lớn.

Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Mực nước biển dâng, hạn hán kéo dài và lũ lụt ngày càng nghiêm trọng hơn, làm ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất.

Cụ thể, đồng bằng sông Cửu Long, một trong những vùng sản xuất nông nghiệp chính của Việt Nam, đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn gia tăng, làm giảm khả năng cung cấp nước ngọt.

Nguồn nước tại Việt Nam đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là tại các khu vực đô thị và các khu công nghiệp. Các chất ô nhiễm như kim loại nặng, chất hữu cơ, chất thải công nghiệp và sinh hoạt khiến chất lượng nguồn nước bị giảm sút nghiêm trọng.

Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp và khai thác tài nguyên nước ngầm không bền vững cũng là một nguyên nhân chính gây ô nhiễm.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các quy hoạch và chính sách, nhưng việc phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý tài nguyên nước còn chưa thực sự hiệu quả.

Việc triển khai các quy hoạch tài nguyên nước còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sự đồng bộ và chưa có các giải pháp phù hợp để bảo vệ và sử dụng tài nguyên nước bền vững.

Một trong những vấn đề lớn hiện nay là việc khai thác quá mức nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, thủy điện, công nghiệp và sinh hoạt. Điều này không chỉ dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước ở nhiều khu vực mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững.

D.Ngân

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/hoan-thien-kich-ban-nguon-nuoc-cho-cac-luu-vuc-song-quan-trong-d240259.html