Hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu
Với chủ trương xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển phục vụ người dân và doanh nghiệp, tập trung tháo gỡ vướng mắc về thể chế, thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh cho khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã xác định xây dựng và hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, điều hành.
Phóng viên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ đã trao đổi với ông Nguyễn Hồng Tuyến, Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp) xung quanh vấn đề này.
Sửa đổi nhiều văn bản một cách toàn diện để phù hợp với tình hình mới
Thưa ông, xin ông cho biết những kết quả trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật, giai đoạn 2016 – 2020?
Ông Nguyễn Hồng Tuyến: Trong giai đoạn 2016-2020, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, hệ thống pháp luật nước ta tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lượng và chất. Giai đoạn này tập trung thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật, nhiều văn bản được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện để phù hợp với tình hình mới, nhất là để triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
Giai đoạn này, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 112 luật, pháp lệnh, nghị quyết (71 luật, 02 pháp lệnh, 22 nghị quyết của Quốc hội, 17 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội); Chính phủ ban hành 745 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 232 quyết định.
Có được kết quả nêu trên là nhờ sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ có nhiều đổi mới trong công tác xây dựng pháp luật, tập trung cao và dành nhiều thời gian cho việc thảo luận, thông qua các dự án, dự thảo luật, pháp lệnh tại các phiên họp Chính phủ thường kỳ và chuyên đề về xây dựng pháp luật. Thủ tướng Chính phủ có nhiều chỉ đạo ngày càng quyết liệt hơn trong công tác xây dựng thể chế, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc.
Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ cũng tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ về xây dựng pháp luật. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ cũng đã quan tâm, dành nguồn lực nhiều hơn và trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và thi hành pháp luật ở bộ, ngành mình, thường xuyên đôn đốc nhắc nhở các đơn vị hoàn thành đúng tiến độ, nâng cao chất lượng các dự án, dự thảo văn bản; đồng thời xử lý những đơn vị, cá nhân chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hơn trong việc tổ chức thi hành pháp luật.
Vai trò thẩm định của Bộ Tư pháp rất quan trọng trong quy trình xây dựng pháp luật. Quá trình thẩm định, nổi lên những vấn đề nào cần được tập trung khắc phục để công tác này đạt được kết quả tốt hơn trong thời gian tới, thưa ông?
Ông Nguyễn Hồng Tuyến: Theo Quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Điều 37, Điều 58, Điều 88, Điều 92 và Điều 98), Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định đối với: Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ; Hồ sơ dự thảo luật, pháp lệnh do Chính phủ trình và Hồ sơ dự thảo nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng.
Từ năm 2016 đến hết tháng 11/2020, Bộ Tư pháp đã thẩm định 1.516 văn bản (137 đề nghị xây dựng văn bản, 1.295 dự án, dự thảo, 92 điều ước quốc tế). Báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp là kênh thông tin quan trọng để Chính phủ, UBND xem xét, quyết định việc trình các dự án, dự thảo; là nguồn thông tin hữu ích để các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, HĐND, UBND tham khảo trong quá trình thẩm tra, cho ý kiến, thông qua các dự án, dự thảo. Đối với các cơ quan chủ trì soạn thảo, ý kiến thẩm định là căn cứ để chỉnh lý, hoàn thiện các dự án, dự thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền.
Trong quá trình thẩm định, Bộ Tư pháp nhận thấy vẫn còn một số hạn chế như: Chất lượng thẩm định chưa đồng đều, nhiều khi ý kiến thẩm định còn làm thay cơ quan chủ trì hay quá tập trung vào những vấn đề cụ thể; nhận thức về vai trò, ý nghĩa công tác thẩm định trong một số trường hợp chưa thực sự đúng đắn, còn có tâm lý coi thẩm định như là một thủ tục, một số trường hợp không được tiếp thu, giải trình; hồ sơ gửi thẩm định nhiều khi không có đầy đủ thông tin nên ý kiến thẩm định chưa đánh giá đầy đủ, cụ thể về điều kiện bảo đảm thi hành; việc đánh giá mức độ tương thích với các Điều ước quốc tế còn hạn chế; một số lĩnh vực liên quan tới pháp luật quốc tế còn thiếu đầu tư nghiên cứu so sánh, rà soát. Đây là những vấn đề cần được tập trung khắc phục trong thời gian tới.
Ngoài những nguyên nhân về thể chế, nhận thức, còn xuất phát từ một số nguyên nhân như: Cơ quan chủ trì lập đề nghị, soạn thảo gửi hồ sơ thẩm định còn chậm, thành phần và chất lượng hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định của Luật năm 2015; cơ quan được mời thẩm định cử người tham gia chưa đúng thành phần hoặc thiếu kinh nghiệm nên chất lượng không cao, nội dung ý kiến thẩm định còn chung chung, mang tính chất góp ý; hoạt động của một số Ban soạn thảo, Tổ biên tập chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau, trong đó, tập trung vào một số giải pháp sau: Tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Luật năm 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; cơ quan chủ trì thẩm định, cơ quan, tổ chức cá nhân tham gia thẩm định cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn ý nghĩa, vai trò, tính chất của hoạt động thẩm định; tăng cường huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học vào quá trình thẩm định.
Ưu tiên bố trí biên chế,nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm định; phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì lập đề nghị, chủ trì soạn thảo nghiên cứu kỹ về những chính sách cần thể chế hóa bằng pháp luật và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ trước khi thẩm định; tiếp tục huy động trí tuệ của chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, các đại biểu Quốc hội; sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng vào quá trình thẩm định. Tăng cường tổ chức các hội thảo, tọa đàm, các hoạt động nghiên cứu trước và sau khi tổ chức thẩm định để làm rõ thêm các vấn đề phức tạp, còn có ý kiến khác nhau.
Môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam được quốc tế đánh giá cao
Ông nhìn nhận như thế nào về yêu cầu lớn hiện nay là tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế phù hợp với đặc điểm kinh tế thị trường hiện đại và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam?
Ông Nguyễn Hồng Tuyến: Hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế sao cho phù hợp với đặc điểm kinh tế thị trường hiện đại và thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện các cam kết quốc tế là vấn đề quan trọng được nêu rõ trong dự thảo văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng như tại Kết luận số 83-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp nhằm thúc đẩy khởi nghiệp, giảm tỷ lệ doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, giảm chi phí đầu vào, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân. Những nỗ lực cải cách của Việt Nam về môi trường đầu tư, kinh doanh đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. So với năm 2015, xếp hạng môi trường kinh doanh (Doing Business 2020) của Việt Nam đã tăng 20 bậc (hiện xếp thứ 70 trong 190 nền kinh tế).
Ngày 12/5/2020 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025. Theo đó, khẳng định rõ quan điểm “lấy doanh nghiệp, người dân làm trung tâm, động lực phát triển KT-XH của đất nước; thúc đẩy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tham gia hoạt động kinh doanh; giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, người dân trong việc tuân thủ các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh”.
Nghị quyết đặt ra mục tiêu: Trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2025, cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tại các văn bản đang có hiệu lực thi hành; giảm tối đa số lượng văn bản hiện hành có quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ.
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện các loại thị trường để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; hình thành hệ thống thể chế có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng công cụ chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; sửa đổi các luật liên quan đến quyền tự do kinh doanh, quản lý thương mại, đầu tư, ngân sách, thuế… tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính là một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ phải thực hiện trong thời gian tới.
Đâu là những thành tựu nổi bật đối với công tác thi hành pháp luật, giai đoạn 2016-2020, thưa ông?
Ông Nguyễn Hồng Tuyến: Theo tôi, giai đoạn 2016 - 2020, công tác thi hành pháp luật đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thực hiện và đạt được những thành quả bước đầu. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có nhiều đổi mới, tiến bộ hơn, bước đầu áp dụng khoa học công nghệ vào công tác truyền thông để đưa pháp luật đi vào cuộc sống nhanh hơn, hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn.
Công tác theo dõi thi hành pháp luật và đánh giá tình hình thi hành pháp luật được đổi mới, nâng cao hiệu quả thực hiện. Vai trò của pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương tập trung hơn vào quản lý điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng; cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt được kết quả tích cực. Cuộc chiến chống tham nhũng thu được nhiều thành tựu nổi bật.
Việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc về tham nhũng, kinh tế đồng bộ, hiệu quả, tạo bước đột phá trong phát hiện, xử lý nghiêm sai phạm, có sức cảnh báo, răn đe mạnh mẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, khẳng định quyết tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai".
Xin ông cho biết phương hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật trong thời gian tới?
Ông Nguyễn Hồng Tuyến: Phương hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật trong thời gian tới cần tập trung vào một số nội dung như: Bám sát các định hướng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong các văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng khóa XIII, các Kết luận về tổng kết và thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW; Chỉ thị số 32-CT/TW; Chỉ thị số 33-CT/TW; Chỉ thị số 39-CT/TW và các Nghị quyết chuyên đề.
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, có sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững KT-XH và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể chế về quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh nội luật hóa các cam kết quốc tế.
Đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thi hành pháp luật. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế về tổ chức, bộ máy nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Trân trọng cảm ơn ông!
Lê Sơn (thực hiện)