'Hoàng tử bé' và giấc mơ tôn vinh pháp lam Việt
Trong tiểu thuyết 'Hoàng tử bé' của nhà văn Pháp Antoine de Saint-Exupéry có một câu nói đầy tính triết lý về tình yêu của hoàng tử với đóa hồng rằng, không phải vì bản thân đóa hồng đặc biệt mà 'chính thời gian cậu đã dành cho đóa hồng của cậu, làm cho nàng trở nên quan trọng đến thế'.

Trương Thanh Tùng giới thiệu sản phẩm pháp lam.
Gặp gỡ và trò chuyện với Trương Thanh Tùng (huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh) tôi cũng nhận ra một “Hoàng tử bé” với tình yêu thuần khiết như vậy dành cho “đóa hồng” - nghệ thuật pháp lam.
Điều đó thể hiện qua hàng năm trời cần mẫn mày mò làm từng sản phẩm từ con số 0, qua ý chí không từ bỏ dù ban đầu làm ra vô số thành phẩm lỗi… Bởi như Hoàng tử bé, với Tùng, pháp lam là “đóa hồng” mà anh đã gửi vào đó tất cả nhiệt huyết và đam mê.
“Đóa hồng” pháp lam
Pháp lam theo tiếng Anh gọi là “painted enamels”, tiếng Pháp là “émail peint sur cuivre”, tại Nhật Bản là “shipouyaki” và Trung Quốc là “pháp lang”... có một lịch sử phát triển lâu đời và phong phú trên thế giới. Khi du nhập Việt Nam thì nghệ thuật này mang tên gọi là “pháp lam”.
Về tên gọi này có nhiều lý giải khác nhau. Theo họa sĩ Phạm Đăng Trí, có thể do thổ ngữ Huế phát âm không phân biệt được “lang” và “lan” nên đã đổi “lang” thành “lam” để tránh âm “Lan” trong tên của Chúa Nguyễn Phúc Lan. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn ở Huế thì lại cho rằng, có thể đây là cách để tránh tên gọi Hoàng hậu Tống Thị Lan - vợ Vua Gia Long. Còn một hướng giải thích khác đó là “pháp” có nghĩa luật lệ, khuôn phép, còn “lam” dùng chỉ mầu men. Cách hiểu này cho thấy bản chất pháp lam là nghệ thuật tráng men lên cốt kim loại theo những cách thức, luật lệ định sẵn.
Từng có giai đoạn phát triển cực thịnh, pháp lam Huế bắt đầu sa sút từ sau thời kỳ “tứ nguyệt tam vương” (1883 - 1885). Dù được phục hồi và chỉnh đốn dưới triều Đồng Khánh (1885 - 1889), song pháp lam vẫn dần rơi vào suy thoái rồi thất truyền.
Theo các nhà nghiên cứu, về cơ bản, hình thức thể hiện của các đồ án pháp lam Huế xoay quanh các chủ đề rồng phượng, chim muông, hoa lá, phong cảnh, thơ văn, câu đối chữ Hán Nôm, và các họa tiết trang trí mang phong cách cổ điển và truyền thống... Pháp lam Huế mang vẻ tươi sáng với những gam mầu như tím, đỏ, xanh lam, vàng chanh, hồng phấn, xanh đậm... Nếu Huế thường gắn với vẻ đẹp u hoài, trầm mặc, thì pháp lam tựa như nét chấm phá tươi vui, thể hiện rõ nét vàng son một thời và đặc biệt là đã góp một phần quan trọng đưa quần thể di tích cố đô Huế trở thành Di sản văn hóa của thế giới vào năm 1993.

Mong muốn lan tỏa nghệ thuật pháp lam, Tùng thường tổ chức workshop cho các bạn trẻ.
…Và “Hoàng tử bé” với giấc mơ lớn
Từ cảm giác choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của pháp lam trong một lần đến thăm Huế cách đây khoảng 5 năm, chàng trai từng học ngành viễn thông hàng không bước vào một hành trình “trên mây”.
“Bắt đầu từ con số 0, bởi pháp lam Huế gần như không để lại ghi chép nào, mình tự mày mò và tìm hiểu một số tài liệu cũng như học hỏi nghệ sĩ nước ngoài, rồi cứ thế dấn thân vào con đường mà nhiều người nói là “chẳng hiểu nó làm gì”, Tùng chia sẻ giản dị cùng nụ cười hiền.
Tất nhiên là con đường này không hề dễ dàng. Mất khoảng hai năm nghiên cứu, tìm tòi kỹ thuật pha men, rồi thực hành, thử sai để dần kiểm soát nhiệt độ nung, Tùng đã trải qua đủ các cung bậc cảm xúc với pháp lam: từ nản lòng muốn bỏ cuộc vì men bị nứt, bong tróc, hay kim loại biến dạng cho đến vỡ òa khi có được một sản phẩm không bị hỏng, ra hình dạng như mình mong muốn. “Dù không hay mua vé số, nhưng mình thường xuyên có cảm giác trúng số”, Tùng chia sẻ mà như vẫn đang tận hưởng niềm hạnh phúc khi một sản phẩm ra lò như ý.
Từ những bước cơ bản, Tùng tự rút kinh nghiệm và kỹ thuật thực hành sản phẩm dần tốt lên. “Kinh nghiệm mà mình có đều dựa trên những sai lầm”, Tùng kể, “thí dụ không biết xử lý men, rồi nung vô tình để nhiệt quá cao, thậm chí có lần những sợi kim loại còn đổ rạp, méo mó khi mình nung. Những lúc đó mình chỉ muốn bỏ hết đi”.
Vậy tại sao chàng trai trẻ đó vẫn không bỏ cuộc? Để có được sản phẩm hoàn thiện như hiện tại, nhìn thì lung linh, nhưng đằng sau đó là biết bao mồ hôi, nước mắt và cả sự căng thẳng, nản chí. “Mỗi khi thử sai, mình lại tự nhủ, gần đạt, gần đạt rồi. Nhưng sản phẩm nung xong lại thấy chưa đạt, mình tiếp tục động viên bản thân cứ ráng xíu nữa, sắp xong rồi. Cứ làm như vậy hàng trăm, hàng nghìn lần. Mình không muốn bỏ cuộc vì nhìn lại thấy có những tác phẩm thật đẹp, và quan trọng là thấy được trong đó là bao nhiêu công sức, bao nhiêu tâm huyết đã bỏ ra”, Tùng đúc kết.
Đó chính là lúc, đối với tôi, Tùng mang một tình yêu thuần khiết như Hoàng tử bé vậy. Không chỉ là vì pháp lam đẹp, mà còn vì trong mỗi nước men có những đêm Tùng thao thức tìm tòi, trong mỗi mầu nung ánh sắc có bàn tay tỉ mỉ, uốn kim loại, cầm chiếc máy khò tuy đơn giản nhưng phải kiểm soát nhiệt độ sao cho thật chính xác. Như bông hồng được Hoàng tử bé tưới tắm, che nắng, bắt sâu, mỗi tác phẩm pháp lam là thời gian, là tâm trí, là bàn tay nắn nót mà Tùng đã trút vào đó bằng tất cả tâm huyết. Bởi vậy, làm sao có thể từ bỏ!
Hiện tại, Tùng đã có thể làm chủ ba kĩ thuật chính, theo tìm hiểu của anh, đó là: kháp ti pháp lam (cloisonne), tạm thai pháp lam (champleve) và họa pháp lam (paint enamel). Kháp ti pháp lam sử dụng những sợi kim loại mảnh, uốn thành hoa văn, tạo vách ngăn trước khi đổ men. Tạm thai pháp lam là khắc họa tiết trực tiếp lên bề mặt kim loại, sau đó phủ men lên những phần đã tạo hình. Còn họa pháp lam là phủ một lớp men mỏng làm nền, rồi vẽ họa tiết bằng men lỏng. Sau tất cả các công đoạn, sản phẩm được nung ở nhiệt độ khoảng 800°C để cố định mầu sắc và tạo độ bóng.
Đặc biệt, chàng nghệ sĩ tay ngang này còn sáng tạo nên một kỹ thuật độc đáo của riêng mình mà hiện tại chưa có một nghệ sĩ nào thực hiện, đó là ứng dụng men mài. “Xuất phát từ yêu thích với sơn mài, mình đã thử nghiệm với pháp lam, tạo hiệu ứng khá thú vị. Đó là một kỹ thuật không quá khó, với khoảng bảy lớp, từ men đến kim loại đồng, bạc, rồi lại men, sau đó mài, tạo nên sản phẩm có chiều sâu”.
Như Tùng chia sẻ, điểm đặc biệt của men mài pháp lam là mỗi sản phẩm được tạo ra là độc nhất, không cái nào giống nhau, và so với sơn mài thì các lớp men của pháp lam mỏng hơn, mầu trong hơn và nhiều lớp hơn, tạo thành hiệu ứng riêng biệt. “Mỗi sản phẩm men mài hoàn thiện là một phần thưởng bất ngờ dành cho sự kiên nhẫn”, Tùng hào hứng chia sẻ, ngay cả nghệ sĩ cũng không chắc chắn được sắc mầu cuối cùng của men mài hiện lên là như thế nào.
Có thể nói, từ thất truyền, đến nay, pháp lam đã phần nào được khôi phục lại, tuy chưa thể nói đúng là pháp lam Huế nguyên bản nhưng với nỗ lực của một nghệ sĩ trẻ như Tùng, nghệ thuật đặc sắc của người Việt đang trở lại với đời sống ngày nay trong dáng vẻ vừa truyền thống vừa mang hơi thở thời đại. Các sản phẩm của Tùng có thể là tranh, là đồ trang trí, hoa tai, mặt dây chuyền, hay ứng dụng trong trang trí nội thất như ghế, tủ, giường…
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cũng có đơn vị nghiên cứu về pháp lam Huế nhưng những người trẻ thì chưa mặn mà. “Kỹ thuật pháp lam không khó, nhưng cần sự dấn thân và nhất là kiên trì, nhạy cảm của người làm. Nếu không đam mê thì dễ thối chí lắm”, Tùng cho hay. Tùng thí dụ (anh có thật nhiều thí dụ theo cách này), thời gian nung theo lý thuyết là 30 giây, nhưng có lúc lại không phải thế, mà còn phụ thuộc vào độ dày của kim loại, hình thức sản phẩm, cần quan sát bằng mắt và có độ nhạy với nhiệt độ. Có lần, chính Tùng đã tốn cả tuần với một sản phẩm mà cuối cùng chỉ vì hơn 30 giây nung mà bỏ đi hết, vì sợ kim loại khảm bị lung lay, nghiêng ngả do kiểm soát nhiệt độ chưa thuần thục. Hiện tại, Tùng đang hỗ trợ một số bạn sinh viên mỹ thuật để tiếp cận với nghệ thuật pháp lam, nhưng vẫn chưa có người thật sự sẵn sàng theo đuổi nghề. Bởi thế, ngoài việc tiếp tục nghiên cứu, làm nghề, Tùng luôn nỗ lực lan tỏa pháp lam đến với càng đông đảo công chúng càng tốt.
Tùng cũng đau đáu kiếm tìm được những nhà đầu tư tâm huyết, sẵn sàng đồng hành với mình, để có thể áp dụng được pháp lam vào kiến trúc, như các nghệ nhân xưa đã ứng dụng với kinh thành Huế, bởi đó là đặc trưng riêng có của pháp lam Việt. Do nguồn lực hạn chế, hiện tại Tùng đã có những thử nghiệm trên quy mô nhỏ, thí dụ như để chén ngoài trời mưa gió, kiểm tra sốc nhiệt để tìm ra bí kíp cho một nước men hoàn hảo. Dù khiêm tốn nhận mình chỉ là hạt cát trên biển nhưng “Hoàng tử bé” Thanh Tùng vẫn không nguôi mơ ước sẽ có ngày mang được “đóa hồng” pháp lam của mình lên các công trình kiến trúc lớn hơn để tôn vinh nghệ thuật này, và đi xa hơn, mang vẻ đẹp Việt đến với thế giới.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/hoang-tu-be-va-giac-mo-ton-vinh-phap-lam-viet-post884732.html