Hội chứng Wiskott-Aldrich: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị và phòng tránh

Hội chứng Wiskott-Aldrich (WAS) là một chứng suy giảm miễn dịch di truyền hiếm gặp, có thể gây tử vong.

NỘI DUNG:

1. Tổng quan bệnh

2. Nguyên nhân hội chứng Wiskott-Aldrich

3. Triệu chứng hội chứng Wiskott-Aldrich

4. Điều trị hội chứng Wiskott-Aldrich

5. Phòng ngừa hội chứng Wiskott-Aldrich

1. Tổng quan hội chứng Wiskott - Aldrich

Người mắc hội chứng Wiskott-Aldrich có biểu hiện bằng tình trạng suy giảm chức năng các tế bào lympho T và B trong khi số lượng của quần thể tế bào này vẫn ở mức bình thường. Bệnh nhân mắc chứng suy giảm miễn dịch kết hợp trầm trọng này thường rất nhạy cảm với rất nhiều tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, virus, nấm và động vật nguyên sinh.

Hội chứng Wiskott-Aldrich (WAS) là một chứng suy giảm miễn dịch di truyền hiếm gặp có thể gây tử vong ở người.

Hội chứng Wiskott-Aldrich (WAS) là một chứng suy giảm miễn dịch di truyền hiếm gặp có thể gây tử vong ở người.

Theo thời gian, chức năng của các tế bào này càng ngày càng suy giảm nặng hơn, nồng độ IgM thường giảm trong khi IgG vẫn giữ ở mức bình thường còn IgA lẫn IgE thì đều tăng. Hội chứng này còn liên quan đến quá trình giảm tiểu cầu, xuất huyết dưới da ở các vết chàm, khả năng mắc phải các bệnh khác hoặc một số loại ung thư do sự suy giảm hệ miễn dịch.

Phần lớn các trường hợp mắc hội chứng Wiskott-Aldrich là nam giới. Ước tính tỷ lệ mắc hội chứng này là khoảng 10 trẻ trên 1 triệu bé trai. Những bé gái có gen dị thường của hội chứng này thường không bị ảnh hưởng mà sẽ di truyền cho thế hệ tiếp theo.

Trẻ trai mắc chứng này thường bị bệnh chàm rất nặng và xuất huyết dạng mảng dưới da (do khiếm khuyết số lượng và chức năng tiểu cầu). Trẻ thường rất dễ mắc các nhiễm trùng sinh mủ.

2. Nguyên nhân hội chứng Wiskott-Aldrich

Hội chứng WAS xảy ra do có sự đột biến hoặc bị mất gen trên nhiễm sắc thể X có mã là Wiskott-Aldrich Syndrome Protein (WASP). Protein WAS đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu và tổ chức tế bào máu (cấu trúc) của các tế bào T và B.

Đột biến vị trí mối nối chủ yếu xảy ra ở nửa dưới của gen WAS (phần trong 6 đến 11). Các đột biến ảnh hưởng đến các vị trí nối biến thể có thể tạo ra nhiều sản phẩm nối, thường bao gồm lượng bình thường của cDNA gen WAS (ví dụ: c.559 + 5G> A).

Sáu điểm đột biến nóng, được xác định là xảy ra ở> 2,5 phần trăm dân số WAS / XLT, đã được xác định. Ba trong số các điểm nóng này đại diện cho các đột biến điểm (T45M; R86C / H / L / S; R211X) trong các vùng mã hóa, trong khi ba điểm còn lại liên quan đến các vị trí nối (c.559 + 5G> A; c.777 + 1G> N; c .777 + 1 đến 6 del GTGA). Sáu đột biến điểm nóng này chiếm 25,6 phần trăm của toàn bộ nhóm.

Sự đảo ngược tự phát soma của các đột biến gây bệnh khôi phục sự biểu hiện WASp trong một phần nhỏ của tế bào lympho ở 10% bệnh nhân bị WAS. Đảo ngược xôma và khảm được quan sát thấy ở bệnh nhân WAS cổ điển thường ảnh hưởng đến tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK) và tập hợp con tế bào T biệt hóa, thường là tế bào T CD8 , nhưng dường như không ảnh hưởng đến kiểu hình lâm sàng.

3. Triệu chứng hội chứng Wiskott-Aldrich

Việc chẩn đoán xác định hội chứng Wiskott-Aldrich dựa trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng như sau:

Triệu chứng lâm sàng:

Hội chứng xuất huyết: Ngoài ra có những trường hợp chảy máu nặng, bệnh nhân có thể có các biểu hiện chảy máu nhiều nơi như chảy máu mũi, miệng, tiểu máu, chảy máu trong, thậm chí là chảy máu nội sọ, dẫn đến mất máu đe dọa tính mạng.
Các bệnh nhân mắc hội chứng Wiskott-Aldrich thường có nồng độ IgE tăng cao và dễ bị dị ứng.
Suy giảm miễn dịch có thể ảnh hưởng đến chức năng của tế bào lympho B và T làm tăng nguy cơ và tần suất mắc các bệnh nhiễm trùng sinh mủ như nhiễm trùng tai, viêm phổi, nhiễm trùng da, nhiễm herpes.
Làm xuất hiện một số bệnh liên quan hệ miễn dịch như viêm mạch máu, viêm khớp và thận.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm công thức máu
Định lượng các globulin miễn dịch.
Chẩn đoán xác định hội chứng khi xét nghiệm DNA cho thấy sự có mặt của đột biến gen WASP di truyền liên kết với nhiễm sắc thể X.

4. Điều trị hội chứng Wiskott-AldrichĐiều trị triệu chứng

Dùng kháng sinh để điều trị và dự phòng nhiễm khuẩn.
Dùng corticoid để điều trị tình trạng di ứng cho bệnh nhân.
Truyền huyết tương giàu tiểu cầu hoặc cắt lách để điều trị triệu chứng xuất huyết do giảm tiểu cầu gây nên.

Điều trị đặc hiệu

Phương pháp trị bệnh thông dụng nhất là sử dụng ghép tủy xương hoặc cấy tế bào gốc từ một người cho phù hợp, thường là từ chị em ruột hoặc họ hàng. Những bệnh nhân có người thân hiến tặng phù hợp có tỷ lệ cấy ghép thành công đến 80%. Các trường hợp cấy ghép tạng hiến tặng ngẫu nhiên thường có tỷ lệ thành công ít hơn và dễ mắc các biến chứng nếu tạng không tương xứng. Việc cấy ghép tế bào gốc nên được thực hiện ngay khi còn nhỏ vì kết quả sẽ tốt hơn.

Trước khi cấy ghép hoặc nếu việc cấy ghép không phải là một lựa chọn, trẻ bị mắc hội chứng có thể cần điều trị đặc hiệu cho các vấn đề suy giảm miễn dịch và chảy máu, bao gồm:

Dự phòng kháng sinh (trimethoprim-sulfamethoxazole hay Biseptol) hàng ngày để ngăn ngừa nhiễm trùng viêm phổi do nhiễm trùng bào tử Pneumocystis ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới ba đến bốn tuổi với WAS cổ điển.
Acyclovir dự phòng ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng herpes simplex virus (HSV) tái phát.
Truyền tiểu cầu để điều trị các đợt chảy máu lớn, chẳng hạn như xuất huyết cấp tính ở hệ thần kinh trung ương hoặc xuất huyết tiêu hóa, hoặc để ngăn ngừa mất máu quá nhiều trong khi phẫu thuật (truyền tiểu cầu không được khuyến cáo như một biện pháp dự phòng thường quy hoặc cho các trường hợp xuất huyết nhẹ).
Liệu pháp điều trị gen cho hội chứng Wiskott-Aldrich vẫn còn đang trong quá trình thử nghiệm, áp dụng cho trường hợp bệnh nhân không có người cho phù hợp.
Điều trị ức chế miễn dịch - Điều trị ức chế miễn dịch có thể được yêu cầu đối với các biểu hiện tự miễn dịch.
Cắt lách - Cắt lách chọn lọc đã được ủng hộ ở những bệnh nhân được chọn lọc với WAS / XLT để đảo ngược tình trạng giảm tiểu cầu và ngăn chặn xu hướng chảy máu bằng cách tăng số lượng tiểu cầu lưu hành.
Cấy ghép tế bào tạo máu

Việc chẩn đoán xác định hội chứng Wiskott-Aldrich dựa trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Việc chẩn đoán xác định hội chứng Wiskott-Aldrich dựa trên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

5. Phòng ngừa hội chứng Wiskott-Aldrich

Bệnh có cơ chế di truyền liên kết X phức tạp nên khó phát hiện ở những người phụ nữ mang gen bệnh cho đến khi sinh con.

Để chủ động phòng ngừa, người mẹ nên làm xét nghiệm sàng lọc gen lặn để chủ động cho tương lai của con. Các cặp vợ chồng trước khi mang thai cần tư vấn và xét nghiệm di truyền đảm bảo sinh con khỏe mạnh.

Bên cạnh đó, người bệnh nên tạo lập một số thói quen sinh hoạt như sau để hạn chế diễn tiến của hội chứng này:

Có chế độ dinh dưỡng phù hợp, tránh các thực phẩm dễ gây dị ứng như là sữa, trứng, đậu hay các loại quả hạch.
Tập thể dục thể thao, hoạt động thể lực hợp lý. Nên hạn chế tham gia các môn thể thao có nguy cơ gây chấn thương cao, đặc biệt là các môn thể thao đối kháng.
Trẻ đang tập đi nên có dụng cụ bảo hiểm như mũ bảo hiểm, quấn bảo vệ khuỷu, gối, cổ chân … để tránh tình trạng tổn thương, nhất là chấn thương đầu.

Bs. Nguyễn Thái

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/hoi-chung-wiskott-aldrich-nguyen-nhan-trieu-chung-cach-dieu-tri-va-phong-tranh-169250321113749671.htm