Hội nghị TW 8: Đầu tư cho con người và chính sách xã hội để phát triển bền vững
Sẽ có nghị quyết mới về chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để giải quyết các vấn đề xã hội, phù hợp với mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhâp trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Các chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra, với nhiều điểm sáng trong lĩnh vực người có công, giảm nghèo và an sinh xã hội.
Trong tổng số 26 chỉ tiêu, có 5 chỉ tiêu vượt và hoàn thành trước thời hạn; 16 chỉ tiêu đạt mục tiêu vào năm 2020. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết, một số chính sách đã bộc lộ những hạn chế cần khắc phục.
Để có thể quản lý và phát triển xã hội phù hợp với mục tiêu trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam có kế hoạch ban hành một nghị quyết mới về chính sách xã hội giai đoạn 2023-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đây là một nội dung được Trung ương bàn và cho ý kiến tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020”.
Ngày 1/6/2012, tại Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 15, một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, tập trung vào 2 nhóm chính sách cơ bản, quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội là chính sách ưu đãi người có công và chính sách an sinh xã hội.
Mục tiêu nghị quyết đặt ra là cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, để năm 2015 cơ bản bảo đảm gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; đến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Đây là mốc quan trọng tiếp tục khẳng định sự quan tâm của Đảng trong thực hiện chính sách xã hội, để phát triển nhanh và bền vững.
GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương cho biết: "Phát triển xã hội, phát triển con người, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn là mục tiêu cốt lõi của Việt Nam trong suốt quá trình phấn đấu, phát triển và xây dựng đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với những nỗ lực phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng, quan tâm thực hiện các chính sách xã hội theo phương châm: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển, với mục tiêu là mang lại hạnh phúc ngày càng nhiều cho nhân dân".
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về chính sách xã hội có chuyển biến rõ rệt. Hệ thống chính sách xã hội đã cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Các chỉ tiêu đều đạt và vượt mục tiêu nghị quyết đề ra với nhiều điểm sáng trong lĩnh vực người có công, giảm nghèo và an sinh xã hội, trong tổng số 26 chỉ tiêu có 5 chỉ tiêu vượt và hoàn thành trước thời hạn và 16 chỉ tiêu đạt mục tiêu vào năm 2020. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2020 có sự cải thiện trong bảng xếp hạng của Liên Hợp Quốc (từ vị trí 128/187 năm 2011 lên vị trí 117 vào năm 2020).
Chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đặc biệt - là chính sách tốt nhất trong các chính sách xã hội. Đối tượng người có công được mở rộng, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh hàng năm. Đến năm 2020, cả nước đã giải quyết cơ bản hồ sơ đề nghị công nhận người có công còn tồn đọng; đảm bảo 99,5% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn trung bình của dân cư trên địa bàn cư trú, 99% xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ. Trên 9,2 triệu người có công, trong đó có trên 1,2 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng.
Chính sách an sinh xã hội khẳng định vai trò là xương sống của hệ thống chính sách xã hội trong phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các rủi ro của người dân trong cuộc sống.
Ông Bùi Tôn Hiến, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động xã hội (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) khẳng định, trong 10 năm, vấn đề việc làm, thu nhập đã không ngừng được cải thiện. Thể chế thị trường từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp quan trọng trong giải quyết việc làm. Hàng năm, bình quân giải quyết việc làm cho 1,5 đến 1,6 triệu người và tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở dưới mức 3%.
Thu nhập của người lao động được cải thiện trong 10 năm vừa qua và thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Đến năm 2021, thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệu đồng/người/tháng, cao gấp 3 lần so với năm 2010. Về các chính sách giảm nghèo thì giảm nghèo bền vững tiếp cận đa chiều được triển khai hiệu quả, được cộng đồng quốc tế đánh giá là hình mẫu trong cuộc chiến chống đói nghèo và tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân là 1 - 1,5%/năm, còn 2,23% vào năm 2021.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, việc thực hiện một số chính sách xã hội còn những hạn chế, bất cập. Chính sách xã hội còn thiếu tính bao trùm, liên kết trong hỗ trợ và chưa bao phủ hết đối tượng; chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện; chênh lệnh mức sống giữa vùng miền, nhóm đối tượng còn cao.
Các chính sách thị trường lao động hiệu quả chưa cao. Nhóm lao động khu vực phi chính thức chưa được quan tâm đúng mức; độ bao phủ BHXH thấp so với tiềm năng, BHXH tự nguyện chưa thực sự hấp dẫn người lao động tham gia. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất lượng dịch vụ y tế cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu; tỷ lệ người dân khu vực nông thôn được tiếp cận nước sạch theo tiêu chuẩn Quốc gia còn thấp; phát triển nhà ở xã hội mới đạt 41% so với mục tiêu.…
Theo PGS- TS Bùi Văn Huyền, Viện trưởng Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, lao động ở khu vực phi chính thức ở Việt Nam khoảng 33 triệu người và có xu hướng tăng (theo Ngân hàng thế giới). Đây là đối tượng chưa tham gia BHXH với nhiều lý do khác nhau. Họ là những người không nghèo đến mức phải trợ cấp, do đó họ nằm trong diện không được bao phủ, nhưng rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc (sức khỏe, dịch bệnh, thiên tai). Gặp những cú sốc, lập tức họ rơi xuống trạng thái thấp hơn, nhưng không được bao phủ nên thiếu đảm bảo về an sinh. Giải pháp cho khu vực này đã được đề xuất nhiều lần, tuy nhiên câu chuyện chưa được giải quyết triệt để và khu vực này đang có xu hướng tăng lên.
Còn ông Nguyễn Văn Cừ, Phó Chánh văn phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu thực tế cơ sở vật chất chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu, nhiều địa phương chưa đảm bảo tỷ lệ tối thiểu 20% ngân sách cho giáo dục. Việc quy hoạch mạng lưới trường lớp ở một số địa phương còn bất cập, đặc biệt là việc ưu tiên quỹ đất cho xây dựng trường.
Hiện còn khoảng 55,6% trẻ em là con công nhân được chăm sóc, giáo dục tại các nhóm lớp độc lập tư thục, trong đó một số nhóm lớp chưa đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn đối với trẻ. Số thiết bị dạy học tối thiểu theo danh mục đáp ứng nhu cầu dạy học bình quân chung cả nước còn thấp, năm 2020 mới chỉ đạt 54,3%, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học.
Đứng trước bối cảnh phát triển mạnh mẽ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những tác động từ dịch bệnh, biến đổi khí hậu và những thách thức của môi trường quốc tế cạnh tranh, trong khi Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn “già hóa dân số” với tỷ lệ người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) chiếm 10% tổng dân số từ năm 2021 và là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới… đặt ra không ít thách thức trong phát triển đất nước nói chung, đến giải quyết các vấn đề xã hội nói riêng.
Để tiếp tục đổi mới, hướng đến phát triển bền vững, quan điểm của Việt Nam là tiếp tục xây dựng và thực hiện chính sách xã hội bao trùm, toàn diện, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội dựa trên quyền con người. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, phổ cập và hiện đại; coi việc thực hiện chính sách xã hội, chăm lo cho người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên của Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, tổ chức và toàn xã hội.
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Văn Hồi cho biết một nghị quyết mới về chính sách xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để giải quyết các vấn đề xã hội, phù hợp với mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhâp trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 dự kiến sẽ được ban hành thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu đề ra, Việt Nam tiếp tục lấy con người là trung tâm của quá trình phát triển, đảm bảo chính sách xã hội phải được xây dựng và triển khai thực hiện hài hòa, đồng bộ với phát triển kinh tế. Đảng, Nhà nước xác định đầu tư cho con người, cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển nhằm đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.