Hơn hai thập kỷ ghép tạng nhi, hàng chục trẻ em được cứu sống

21 năm qua, mỗi ca ghép tạng không chỉ là thành tựu y khoa mà còn là cơ hội cho trẻ mắc bệnh nặng được trở lại trường học, vui chơi và tiếp tục ước mơ.

Ngày 11-12, Bệnh viện Nhi đồng 2 tổ chức Hội nghị ghép tạng nhi lần thứ 4, đánh dấu hành trình 21 năm kể từ ca ghép thận đầu tiên được thực hiện tại bệnh viện vào tháng 6-2004. Đây là cột mốc mở đường cho sự hình thành một trong những trung tâm ghép tạng nhi khoa chủ lực của Việt Nam.

Sau 21 năm, Bệnh viện Nhi đồng thực hiện 50 ca ghép gan

Sau 21 năm, Bệnh viện Nhi đồng thực hiện 50 ca ghép gan

PGS-TS-BS Phạm Ngọc Thạch, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 2, cho biết ghép tạng nhi, đặc biệt là ghép gan và ghép thận, là lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật cao và sự phối hợp của nhiều chuyên khoa. Trong hơn 2 thập kỷ xây dựng chương trình, bệnh viện gặp không ít khó khăn nhưng luôn kiên định với mục tiêu cứu sống trẻ mắc bệnh hiểm nghèo.

Đến nay, bệnh viện đã thực hiện thành công hơn 50 ca ghép gan và 37 ca ghép thận, trở thành bệnh viện nhi đầu tiên tại phía Nam triển khai đồng thời cả 2 kỹ thuật này. Thành tựu này mở ra cơ hội sống cho hàng chục trẻ mắc bệnh nặng, đồng thời khẳng định vị thế của bệnh viện trong lĩnh vực ghép tạng nhi khoa ở Việt Nam.

Nhắc lại ca ghép thận đầu tiên, BS Thạch bày tỏ tri ân đối với các chuyên gia từ Bệnh viện Robert-Debré (Pháp), các đồng nghiệp tại Bệnh viện Chợ Rẫy và GS Trần Đông A, những người đặt nền móng cho chương trình ghép thận nhi của bệnh viện.

Theo BS Thạch, bệnh thận mạn ở trẻ em có xu hướng gia tăng, với khoảng 18 trường hợp mới trên 1 triệu trẻ mỗi năm và 20% trong số này tiến triển đến giai đoạn cuối. Khi đó, 3 phương pháp điều trị thay thế gồm ghép thận, thẩm phân phúc mạc và chạy thận nhân tạo đều cần được triển khai.

Hiện bệnh viện đang điều trị 40 bệnh nhi chạy thận nhân tạo (120 lượt/tuần) và 35 trẻ thẩm phân phúc mạc ngoại trú. Ghép thận được đánh giá là phương án tối ưu nhờ tỉ lệ sống cao và giúp trẻ phát triển thể chất, tinh thần tốt hơn so với điều trị thay thế kéo dài.

Trong 37 ca ghép thận đã thực hiện, 34 ca được lấy từ người cho sống, đa phần là cha mẹ, và 3 ca từ người cho chết não. Kết quả theo dõi cho thấy 81% trẻ có thận ghép hoạt động tốt. Nhiều bệnh nhi sau ghép trở lại cuộc sống bình thường, trong đó có bệnh nhi đầu tiên được ghép thận, hiện sau 21 năm vẫn khỏe mạnh.

Song song với ghép thận, Bệnh viện Nhi đồng 2 đã thực hiện hơn 50 ca ghép gan và là đơn vị nhi khoa đầu tiên tại phía Nam triển khai kỹ thuật này. Tại hội nghị, BSCKII Nguyễn Hồng Vân Khánh. Phó Khoa Gan – Mật – Tụy và ghép gan trình bày báo cáo về nhiễm Epstein–Barr virus (EBV), thách thức lớn nhất sau ghép gan ở trẻ em.

Theo BS Khánh, trẻ nhỏ chưa có miễn dịch bền vững với EBV – tỉ lệ có kháng thể chỉ đạt 54% ở nhóm 6 - 8 tuổi, so với gần 100% ở người trên 35 tuổi. Vì vậy, trẻ sau ghép gan dễ nhiễm EBV nguyên phát và có nguy cơ phát triển bệnh tăng sinh lympho hậu ghép (PTLD), tình trạng hiếm gặp nhưng tỉ lệ tử vong rất cao.

Trong 20 năm theo dõi tại Nhi đồng 2, có 74 trẻ ghép gan được giám sát; 70% từng có EBV-DNA dương tính; 7 trường hợp phát triển PTLD và 4 trẻ đã tử vong. Các số liệu cho thấy PTLD vẫn là thách thức lớn, đòi hỏi theo dõi sát sao để bảo vệ kết quả ghép gan lâu dài cho trẻ.

Hải Yến

Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/hon-hai-thap-ky-ghep-tang-nhi-hang-chuc-tre-em-duoc-cuu-song-196251211184314963.htm