Huế nắng
Ở nơi xứ sở mưa trở thành đặc sản rồi, nói chuyện nắng chẳng thú vị sao!
Thấy các văn nghệ sĩ xứ Huế ở CLB Sách và văn hóa Huế vừa tổ chức cuộc "Cùng ngồi với nhau kể chuyện mưa Huế". Lật cuốn nhật ký sờn rách thời sinh viên Văn khoa Đại học Tổng hợp Huế gần 40 năm trước, những trang nhật ký ướt mưa, những cuốn sách mua ở bờ sông Hương thời ấy nay còn giữ, trang đầu cũng toàn bút tích của mưa. “Hương giang, mưa”, “Xứ Huế chiều mưa”, “Huế thu mưa”... Thơ tôi viết ở Huế thời ấy cũng toàn mưa. “Tạnh mưa thì đã ướt rồi/ Giọt mưa xứ Huế suốt đời không khô”. Hình như sầu mưa là căn bệnh dễ lây lan, đến như Nguyễn Bính dừng gót “giang hồ” có ít ngày cũng kịp để lại thiên trác tuyệt Giời mưa ở Huế.
Nên giờ nói sang chuyện nắng.
Chính là cái nắng Huế đã làm nên bảng màu đặc biệt cho dòng Hương. Hoàng Phủ một hôm nào đó ngồi đọc sách trong vườn An Hiên, “vừa thích thú, vừa lơ đãng, miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và trong mùi hương trốn tìm của hoa trái trong vườn (...). Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: Màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người... Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương” (Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường).
“Hương thủy mộ triều sinh thiển lại/ Trản sơn hồi chiếu đạm không lâm” (Nước sông Hương buổi chiều xuống trơ bãi cát/ Nắng nhạt dần nơi rừng vắng trên điện Hòn Chén” (Thôn cư vãn cảnh). Xưa Cao Bá Quát cũng nhìn thấy nắng trên dòng Hương, với khung cảnh đầy sức sống: Khói bếp, tiếng giã gạo, tiếng hò chèo đò và những cơn gió nồm mát rượi thổi cuốn tung bức rèm. Cho dù chốn kinh thành này lại chính là nơi ghi dấu những biến cố khổ ải nhất đời ông: Hơn 2 năm trời bị giam giữ trong ngục thất, từ ngục Trấn Phủ tới ngục Thừa Thiên. Chỉ vì khi làm quan chấm sơ khảo trường thi, thương những thí sinh thực tài mà có chút cẩu thả, nên ông đã chữa lại vài chỗ trong bài thi mà lãnh tội chết.
Thơ của Phan Bội Châu “Ông già Bến Ngự” cũng nhiều nắng, dù đằng đẵng 15 năm bị Pháp câu thúc và an trí bên dòng An Cựu. “Lưng trời nắng nhạt sao đôi nụ/ Mặt bể hồng tươi nước một màu” (Đêm gần sáng). “Nắng nung cỏ biếc, màu xanh nhạt/ Gió xác hoa hồng, sắc đỏ phai” (Đầu mùa hè). Là mẫu người hành động, khát khao duy tân đổi mới, hình ảnh quen thuộc trong thơ Phan Bội Châu thường là bình minh, là nắng mới. Dù có lúc cụ cũng than mưa, nhưng không phải vì buồn chán cá nhân mà chỉ vì khát khao nắng mới.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư từng gửi chùm thơ cho Phan Khôi, ông chủ nhiệm tuần báo Sông Hương ở Huế thời 1936-1937, với lời dặn “xin đừng gạt cái bài về mưa Huế của tôi”. Có lẽ đó là bài Mưa... mưa mãi, sau in trong tập Tiếng thu xuất bản năm 1939. “Mưa chi mưa mãi/Buồn hết nửa đời xuân!/Mộng vàng không kịp hái...”. Nhưng hình như cụ Phan Khôi cũng không dùng bài này.
Có lẽ dầm dãi ở Huế đã mấy năm trời, tác giả Tình già không muốn nhắc tới... mưa nữa. Và cũng bởi họ Lưu viết về nắng đã trác tuyệt lắm rồi, với Nắng mới “Mỗi lần nắng mới reo ngoài ngõ/Áo đỏ người đưa trước giậu phơi”. Những năm tháng cuối đời, Phan Khôi viết bài thơ Nắng được thì cứ nắng, có hồi quang nào bên bờ Hương giang những năm tháng gian nan làm báo Sông Hương ở xứ Huế? Tôi đã nhiều lần qua lại nơi từng là tòa soạn tuần báo này ở 80 Gia Hội. Những buổi sớm nắng non hắt lên mái ngói, bức tường của những ngôi nhà xưa cũ một màu thời gian, là thứ phù sa giàu thêm trầm tích xứ này.
Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã trao tặng Vĩ Dạ xứ này tuyệt phẩm về nắng: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc/Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Nhưng còn đó một tuyệt phẩm nắng khác “Trong làn nắng ửng: khói mơ tan/Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang” (Mùa xuân chín). Thời điểm năm 1936 khi làm bài thơ này, Hàn thi sĩ mới 24 tuổi nhưng đã phát trọng bệnh. Người ta thường nói người bị bệnh phong (cùi) luôn bị ám ảnh và đau đớn với ánh trăng, nhưng với Hàn Mạc Tử còn có sự mẫn cảm và tinh tế siêu việt với nắng.
Có tư liệu cho rằng, nguyên mẫu giai nhân gánh thóc “dọc bờ sông trắng nắng chang chang” trong bài thơ là cô gái bà con xa mà Hàn thi sĩ gọi chị, nhà ở làng Nguyệt Biều. Thân phụ nhà thơ cũng qua đời và được nguyên táng ở Phường Đúc gần bên. Điều này cũng khá thuyết phục, bởi khung cảnh Mùa xuân chín với “sóng cỏ”, “lưng chừng núi”, “nước mây” gần gũi với cảnh sắc ngôi làng nơi thượng nguồn sông Hương ba mặt nhìn ra sông này. Như trong bài thơ Dạ bạc Nguyệt Biều (Đêm ghé thuyền bến Nguyệt Biều) của Tùng Thiện Vương. “Trúc âm lương xứ dạ đình thuyền/Thủy nguyệt, giang phong, vị nhẫn miên/Cách ngạn chung lâu Thiên Mụ tự/Thanh thanh sao phá viễn đinh yên” (Bóng mát hàng tre tối cột thuyền/Gió sông trăng nước ngủ không yên/Bờ kia từng tiếng chuông Thiên Mụ/Khua vỡ cồn xa lớp khói lên - bản dịch của nhà thơ Lương An).
Dạo ấy, lên mạn đồi Nam Giao thăm xưởng vẽ lợp tôn nắng nóng của Võ Xuân Huy, váng vất với bộ tranh sơn mài Nắng mặt trời nhiệt đới (Tropical Sunlight). Huy đi xa đã 8 năm, giờ ngồi mở máy tính xem lại bộ tranh, chợt nhận ra phía sau bề mặt nứt nẻ, nhăn co kỳ dị của mỗi bức tranh là một mặt trời nóng rực. Nhớ một nghệ sĩ Mỹ trong bài viết về Huy mang tên Seize the day (Hãy nắm bắt mỗi ngày) đăng trên tờ tạp chí nghệ thuật ở Chicago, cũng đã nói. Rằng mặt trời đỏ trong tranh Võ Xuân Huy cứ trượt qua đường chân trời hai lần mỗi ngày, và đếm những ngày tồn tại của chúng ta. Trắc nghiệm thử thách lòng can đảm, niềm tin và hy vọng của chúng ta. “Seize the day” cũng chính là cách gọi khác của Carpe diem, một thành ngữ Latinh quan trọng bậc nhất của loài người…
Rất nhiều mặt trời trong tranh Bửu Chỉ, trong thơ tranh đấu của Ngô Kha, Trần Quang Long, trong nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn... Điêu khắc của Điềm Phùng Thị có 7 sắc cầu vồng, những biến tấu uyển chuyển của nắng và mưa xứ Huế nơi bà sinh ra và lớn lên. Và còn nữa. Là đôi câu thơ của thiền sư Thích Nhất Hạnh, mang chứa cả phong thái, hồn cốt chân như của Huế “Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân/Giọt nước cúi xuống hôn đất, cho hạt cây nẩy mầm” (Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt).
Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/doi-song/hue-nang-149928.html