Huế, Ngày giải phóng… và những ký ức khó quên
Theo di nguyện của người đã mất, vợ, các con và bạn bè của Trần Chi (nguyên Trưởng đài Truyền thanh, Truyền hình huyện Krông Năng, Đắk Lắk) đã đưa hài cốt của anh về rải trên đèo Hải Vân. Là bạn học cùng lớp, cùng tham gia hoạt động phong trào trước năm 1975 nên tôi có mặt tại buổi tiễn đưa ấy. Cầm nắm tro trắng đục tung theo hướng gió cuối trời xa, trong tôi nặng đầy nỗi buồn không sao nói hết, với bao kỷ niệm khó quên, nhất là những ngày sôi động tháng 3 năm 1975, cách đây tròn nửa thế kỷ.

Thành phố Huế ngày giải phóng, mùa xuân 1975 - Ảnh: TTXVN
1. Sáng 24/3/1975, ở thành phố Huế, tôi và Chi đang ở trại gỗ Nam Sơn trên đường Duy Tân (nay là đường Hùng Vương, bên kia cầu An Cựu) thì được mật lệnh của anh Lê Văn Thành, Đội trưởng đội Biệt động, gọi về chốt giữ ở bến đò Chợ Dinh. Nơi đây, ngoài anh Thành, Đội trưởng đội Biệt động thuộc Thành đội Huế, còn có các anh từng hoạt động trong phong trào đô thị. Trừ Đội trưởng, còn lại chúng tôi đều là cơ sở của Thành ủy, hoạt động bí mật hoặc bán công khai trong phong trào đô thị nhưng do yêu cầu của tổ chức, phải chuyển về đội biệt động, trở thành những người lính cầm súng chiến đấu. Trong đơn vị biệt động, vẫn giữ tính chất hoạt động đơn tuyến với biệt danh.
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng
- Ngày 21/3/1975 mở màn Chiến dịch Huế-Đà Nẵng.
- 10 giờ 30 phút ngày 25/3/1975, Quân giải phóng cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Phu Văn Lâu, thành phố Huế được giải phóng.
- 17 giờ ngày 29/3/1975, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn được giải phóng.
Chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29/3/1975) là một trong ba chiến dịch lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi của Chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, cùng với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, tạo ra những điều kiện cơ bản, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thời gian bão táp và khắc nghiệt. Có lúc nó cuốn phăng, xóa hết mọi dấu vết nhanh chóng đến khó ngờ nhưng thời gian của những ngày tháng 3 năm 1975 là ký ức không thể phai mờ. Ngày Huế giải phóng ấy với chuỗi sự kiện tưởng kéo dài đến vô tận: họp nghe phổ biến nhiệm vụ tiếp quản Thành phố và dặn dò đường lối của Cách mạng trước sự rã ngũ và bỏ chạy của binh lính; cùng với lực lượng toàn Thành phố nổi dậy cướp chính quyền; kiểm soát và treo cờ giải phóng lên các công sở; giữ gìn an ninh phố xá cả ngày lẫn đêm, đề phòng địch tạo cơ hội tập trung lực lượng để phản kích, hoặc đập phá, hủy hoại tài sản, nhà cửa, các công trình dân sinh trước khi rút chạy, nhất là giữ gìn tài sản của người dân, ngăn chặn kẻ xấu nhân đục nước hôi của; tổ chức lễ ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng kiêm Quân quản... Ui chao, chỉ một ngày thôi, cái ngày 25 tháng 3 ấy tưởng chừng dài hơn cả cuộc kháng chiến, với bao nhiêu nhiệm vụ và sự kiện diễn ra, như người ta vẫn thường ví von thành một phép đo định lượng: "Một ngày bằng hai mươi năm"! Tuổi trẻ trong sáng và nông nổi. Chúng tôi thời đó, đều tuổi trên dưới đôi mươi, cái tuổi "hồn quay trong gió bão, gân đang săn và thớ thịt căng da" như nhà thơ Tố Hữu từng viết, đến với tổ chức với tấm lòng yêu nước và sự nhiệt thành một cách sáng trong. Trong ngày 25 tháng 3 của 50 năm trước ăm ắp sự kiện ấy có nhiều chuyện vui nhưng cũng có cả chuyện buồn, chuyện tức cười; có những sự kiện, lẽ ra đáng để quên đi nhưng không hiểu sao vẫn còn hiện rõ trong tôi. Mỗi khi nhớ về những ngày sôi động ấy, nó như những đoạn phim quay chậm về một thời bồng bột, chưa được huấn luyện kỹ càng, chưa rành về súng đạn, cũng chưa ý thức đầy đủ về sự khốc liệt của chiến tranh.

Lực lượng quân quản trên cầu Tràng Tiền sau ngày Huế giải phóng - Ảnh: TTXVN
2. Sau năm 1975, chúng tôi vỡ ra nhiều điều, rồi số phận đẩy đưa, mỗi người đi về mỗi ngả. Có người hanh thông thăng tiến, cũng có người lận đận, nhưng đều ở những mũi nhọn của cuộc sống, không trốn tránh, quay lưng. Như trong Đội biệt động của chúng tôi, anh Hoàng bị bệnh mất sớm, anh Thành về làm Phường đội trưởng, rồi lên đến chức Trưởng phòng Ngoại thương thành phố Huế, về hưu nhưng sớm qua đời vì bệnh tật - di chứng của trận đòn tra tấn trong tù. Tịnh về công tác ở Công trình công cộng, rồi sang chiến đấu ở chiến trường Campuchia, về xây dựng và phụ trách thủy điện Bình Điền, rồi về Trung tâm dạy nghề cho trẻ em nghèo, nay đã nghỉ hưu. Quyệt, người không rành súng đạn, bị cướp cò tự bắn bị thương bàn chân trái của mình, trôi dạt về quê trở thành nông dân. Anh Nhiên dẫn thanh niên đi kinh tế mới Đắk Lắk, làm Chủ tịch xã, quay về làm Phó bí thư Thành đoàn, Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố, rồi Trưởng ban Đối ngoại thành phố, về hưu với chức danh Giám đốc Trung tâm hợp tác quốc tế. Hoạt động đối ngoại của anh khá thành công, anh là một trong bốn người ở Huế được chính phủ Cộng hòa Pháp trao tặng Huân chương Cành cọ vàng tước Hiệp sĩ. Những người đi cùng anh lên xây dựng vùng kinh tế mới thời ấy, ở lại trên đó cũng kinh qua nhiều môi trường công tác, giữ nhiều trọng trách với nhiều cống hiến nổi bật nhưng không may đều mắc bệnh hiểm nghèo đã qua đời trong đó có Trần Chi - nhân vật tôi đề cập đầu bài viết...
So với anh em, tôi có phần suôn sẻ hơn: Tiếp tục đi học, ra trường và làm nghề dạy học. Tôi còn nhớ cuối mùa xuân 1976, tôi mang chiếc xe Cindy và khẩu súng lên trả lại cho Thành đội. Thành đội trưởng Nguyễn Tiến Hánh tỏ ra không hài lòng, tôi cố thuyết phục: "Thủ trưởng ký cho em về đi học! Nhà em thuộc diện ưu tiên, có đến bốn, năm liệt sĩ, thủ trưởng ơi!". "Đúng. Tôi biết. Chính vì ưu tiên tôi mới giữ đồng chí ở lại". "Nếu không cho tôi về, xin thủ trưởng chuyển trả tôi về lại Thành ủy!". Tôi xuống nước, năn nỉ.
mùa xuân 1979, tôi đang học gần xong năm thứ hai khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Huế, thì nhận được lệnh gọi tái ngũ. Đã từ giã người thân, người yêu, bạn bè, trường lớp. Đã nhận quân trang, quân dụng. Đã khoác lên người chiếc ba lô, bộ đồ lính và đến nơi tập kết quân (địa điểm Trung tâm Đăng kiểm, đường Điện Biên Phủ, TP Huế bây giờ); và nữa, đã cùng đồng đội lên chiếc xe GMC nổ máy sẵn. Khi xe chuẩn bị chuyển bánh thì có một cán bộ trường tôi đang học, chạy xe máy đến, trên tay cầm một tờ giấy huơ cao, đó là giấy hoãn tái nhập ngũ của tôi do Thành đội cấp. Sau này tôi được biết, có nhiều người ngồi trên đoàn GMC ra đi đợt ấy, đã vĩnh viễn không trở về!
3. Trong đời, chúng tôi có thể đã bỏ quên nhiều thứ, nhưng có những điều trở thành máu thịt, là lẽ sống, là hơi thở không thể lãng quên. Đó là khi Tết đến, xuân về phải viếng thăm những nơi đã cưu mang, che chở chúng tôi trong những năm hoạt động đầy gian truân và hiểm nguy luôn rình rập thuở ấy, trong đó có cả những nơi đã đào hầm bí mật trong nhà nuôi giấu và sống chết với những cán bộ nội thành. Họ làm những điều đó là họ đã tự nguyện và chấp nhận đánh cược mạng sống của cả gia đình vào ván bài sinh tử của lòng yêu nước. Tôi có người anh rể, quê ở Phú Đa, Phú Vang, Huế. Bố mẹ anh nuôi cán bộ trong nhà. Khi địch đến, bảo con cháu lánh bớt sang nhà hàng xóm, hai ông bà trải chiếu giữa nhà ngồi ăn cơm, dưới chiếu là nắp hầm bí mật. Vì có chỉ điểm, nên đối phương đã giằng lấy bát cơm, lôi hai ông bà dậy để khui hầm bí mật. Rồi, trước sự giằng co, ngăn cản quyết liệt của hai vợ chồng già, tránh sao khỏi cái chết diễn ra!
Khoảng mươi năm đầu, cuộc sống còn quá nhiều khó khăn của thời bao cấp, chúng tôi lại như đàn chim vỡ tổ, mỗi đứa một nơi. Khi có điều kiện quần tụ lại với nhau trong gần bốn mươi năm trở lại đây, chúng tôi đều đi thăm vào dịp Tết. Hầu hết những cô bác, anh chị thuở ấy nay đã trở thành người thiên cổ. Họ chết đi, nhưng tấm lòng yêu nước của họ dường như bất tử, vẫn rực hồng một màu đỏ thắm tươi. Đổi lại, chúng tôi cũng chỉ có tấm lòng, với một gói bánh, gói trà, những ngày cuối năm hằng năm, đến thắp một nén nhang, tưởng nhớ người đã khuất. Những năm đầu, còn nhiều người tham gia, rồi rơi rụng dần, bởi già yếu, bệnh tật, có người đã qua đời; những năm gần đây, chỉ còn lại ba người: anh Nhiên, Tịnh và tôi.
***
Thời gian của 50 năm trước và bây giờ vẫn là đại lượng thời gian. Chỉ có cuộc sống con người và vạn vật trôi đi không bao giờ trở lại. Sau những ngày tháng 3 sôi động ấy, anh em chúng tôi bây giờ nhiều người đã ra đi. Những người còn lại đang đi bằng những bước chân chậm rãi cuối cùng của cuộc đời, nhưng vẫn nhớ ngày xưa. Cuộc sống bây giờ đã khác xưa, rất nhiều. Cuộc sống vẫn lao về phía trước. Đất nước, cũng như thành phố Huế thân yêu mà tôi gắn bó gần trọn cả cuộc đời, đang ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", đúng như tâm nguyện của Bác Hồ. Chỉ tính riêng về mặt địa lý một cách cơ học thôi, cũng thấy rất rõ ràng. Ngày xưa, Huế chỉ từ bên dưới Cầu Lòn đến ngang Đập Đá, từ cầu An Hòa đến Bến Ngự. Nay Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, rộng lớn với 8 Di sản Văn hóa thế giới vật thể và phi vật thể, thật đáng tự hào. Từ trong sâu thẳm tâm hồn tôi vẫn luôn động đậy, mỗi khi nhớ về anh em đồng đội một thuở phong trào đấu tranh đô thị, lại ngửi thấy mùi vị và dường như hiện ra trước mắt tôi cái màu tro cốt trắng đục hòa quyện với mây trời, trôi bồng bềnh như những ngọn sóng lan xa, trong không gian bao la của một ngày đất trời tươi sáng và trên hồn cốt của cây cỏ, lá hoa.