Hương ước - nét đẹp văn hóa làng
Hương ước, xét ở khả năng tác động đến đời sống con người và cộng đồng làng xã, có thể ví nó như một 'thước đo chuẩn mực' cho đạo đức, nhân cách, vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với gia đình, dòng họ, cộng đồng. Hương ước có giá trị về mặt lịch sử - văn hóa, hay là một phương thức giúp gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Chùa Giáng (huyện Vĩnh Lộc), điểm đến tín ngưỡng - tâm linh của khách thập phương.
Hương ước xưa còn gọi là “lệ làng”, vốn gắn chặt với cái thế giới bên trong lũy tre xanh đã sản sinh ra nó và cho nó một sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh cả nhận thức lẫn hành vi con người. Quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian xứ Thanh, nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân đã ghi lại một mẩu chuyện khá thú vị, có liên quan đến “lệ làng”. Làng Triệu Tường (huyện Hà Trung) vốn là đất tổ nhà Nguyễn. Tương truyền, người làng này dù làm vua hay làm quan cũng đều có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ mọi quy ước, luật lệ của làng. Thế nhưng khi lên ngôi, vua Minh Mạng lại có biểu hiện lơ là với đất tổ. Vậy là làng Triệu Tường đã họp và cử một đoàn bô lão vào tận kinh đô Phú Xuân, để tâu lên hoàng đế rằng: Lệ làng Triệu Tường đã có mấy đời nay. Ai đó được làm vua hay làm quan đều nhờ phong thổ của làng, âm đức tổ tiên. Nay làng đã họp, mời hoàng đế về làm mõ cho làng 6 tháng. Biết lệ làng không thể chối được, vua phải đưa bạc vàng, nhờ các bô lão về thuê người làm mõ giúp, vì vua còn bận lo việc nước.
Ở đây ta không bàn đến đúng – sai của câu chuyện. Bởi, cái ý niệm sâu xa được truyền tải trong đó có ý nghĩa hơn nhiều. Đó là hệ thống quy định, quy ước đã trở thành ý niệm, thành khuôn mẫu, thành nếp sống và là cơ sở của sự gắn kết giữa người với người, giữa người với quê hương, bản quán. Đặc biệt hơn, bao trùm trong quan điểm hay ý niệm sống ấy luôn hướng đến khát vọng về cuộc sống thuận hòa, yên ổn, trên kính dưới nhường... Thậm chí tâm lý ấy đã trở thành một chuẩn mực đạo đức, thành nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người, để củng cố sự bền vững của cơ cấu làng. Cũng chính sự bền vững của “thành lũy làng”, đã tạo ra “sức đề kháng” để chống lại sự đồng hóa của kẻ thù. Đồng thời, lệ làng xưa còn chứa đựng nhiều thuần phong, mỹ tục và các quy tắc ứng xử liên quan đến mọi mặt đời sống. Từ thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thành hoàng hay người có công với làng với nước; các mối quan hệ gia đình, xóm làng; ma chay, cưới hỏi, lễ hội; quản lý đất đai, công sản... Nhờ đó mà ngày nay, khi xây dựng hương ước làng văn hóa, hậu thế có thể kế tục và phát huy nhiều giá trị vật chất và tinh thần của lệ làng xưa.
Đặc biệt, việc xây dựng hương ước còn có ý nghĩa hơn, khi gắn với phong trào xây dựng làng, bản, tổ dân phố văn hóa. Bởi nhờ đó mà truyền thống tương thân tương ái, tình làng, nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư ngày càng được củng cố và phát huy. Như Bác Hồ đã dạy: “Đối với làng, thì nhà giàu, nhà vừa giúp nhà nghèo; người tốt, người vừa giúp người kém; người học thông giúp người học dốt. Phải làm cho cả làng biết chữ, biết đạo đức và biết trách nhiệm của công dân; phải cấm tệ nạn say sưa, cờ bạc, hút sách, bợm bãi, trộm cắp. Phải tìm cách làm cho không xảy ra chuyện chửi nhau, kiện cáo nhau, xây dựng làng trở thành “thuần phong, mỹ tục”. Làng, thôn, bản, tổ dân phố phải vệ sinh, sạch sẽ. Cán bộ làng phải là người trong sạch, công bằng, thạo việc, làm gương cho mọi người, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung”. Điều này không chỉ được hiện thực hóa bằng các quy định có tính răn đe của luật pháp; mà còn dựa trên những quy định có tính ràng buộc về mặt đạo đức của hương ước làng.
Bởi vậy, hương ước làng văn hóa trong giai đoạn hiện nay không những góp phần phát huy thuần phong, mỹ tục, đề cao các chuẩn mực đạo lý và đạo đức truyền thống của dân tộc; mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc vận động duy trì an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời, góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa; đề ra những tiêu chuẩn gia đình văn hóa và các quy tắc đạo đức mới; giúp đỡ nhau tìm ra các biện pháp xử lý tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình... Đó là chưa kể, các hương ước, quy ước của làng, bản, thôn cũng hỗ trợ tích cực trong việc triển khai thực hiện pháp luật; cũng như điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính tự quản tại cộng đồng dân cư. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội của hệ thống chính quyền các cấp.
Hương ước với các quy tắc, quy ước và chuẩn mực văn hóa mới, phù hợp với bối cảnh mới, sẽ là một “công cụ” đắc lực góp phần giáo dục đạo đức, định hình nhân cách và nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với gia đình, cộng đồng. Đồng thời, việc triển khai hiệu quả hương ước sẽ góp phần thấm sâu các giá trị thuần phong, mỹ tục vào đời sống - trong từng người dân, từng gia đình và cộng đồng. Từ đó, hình thành lối sống, nếp sống văn hóa, văn minh, an toàn, lành mạnh; cũng như tăng sức “đề kháng” trước tệ nạn xã hội và các sản phẩm văn hóa độc hại.
Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/van-hoa-giai-tri/huong-uoc-net-dep-van-hoa-lang/115373.htm