Hương ước xưa: Những mỹ tục cần kế thừa và phát huy
Hương ước xưa hay cách gọi thuần Việt là lệ làng, hiểu nôm na là những quy định thành văn của cộng đồng cư dân sau lũy tre làng. Lệ làng tồn tại song hành cùng phép nước, có khi được đề cao thái quá đến mức đi vào lời ăn tiếng nói dân gian: 'Phép vua thua lệ làng'. Đủ thấy hương ước có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng và vật chất đối với cư dân cộng đồng làng xã. Và phải thấy rằng luật tục tốt đẹp đã tô bồi nên những làng xóm ấm no, an bình, phát huy mặt sáng đẹp, đẩy lùi những điều xấu xa, lạc hậu của nông thôn nước Việt, để lại truyền thống quý báu, di sản tinh thần, văn hóa và pháp lý để tìm hiểu, thừa kế.
Nhìn vào lịch sử, ở Quảng Trị nhiều bản hương ước đã thể hiện giá trị quan trọng và thiết thực. Theo các nhà nghiên cứu, hương ước Văn La-một làng văn vật thuộc “Bát danh hương”, xã Quảng Ninh, tỉnh Quảng Trị thuộc “Bát danh hương” ngày trước, có những quy định đề cao nếp sống tốt đẹp, ví như: Việc tế lễ nên “dụng trầm trà, hoa quả, trai bàn”, lễ khai sắc “thì năm ba người làm chung cũng được” hoặc nói về luân lý: Người nào chửi mắng bậc tôn trưởng, thân thuộc thì chiếu theo tội tình nặng, nhẹ mà trách phạt… đường sá trong làng cần phải sạch sẽ cho hợp vệ sanh…”.

Minh họa: H.H
Tương tự, làng Cảnh Dương thuộc xã Hòa Trạch là một làng biển nổi tiếng tọa lạc gần đèo Ngang, cũng nằm trong “Bát danh hương” của Quảng Bình ngày trước. Vì cuộc sống gắn liền với biển khơi nên hương ước của làng thể hiện rất rõ đặc trưng này. Chẳng hạn đi biển vốn luôn tiềm ẩn những hiểm nguy, thử thách thì nhất thiết phải chọn những người dũng cảm, công bằng, nhân nghĩa chỉ huy. Có vậy mới đoàn kết được mọi người cùng đồng tâm nhất trí, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, cùng nhau vượt qua gian khổ của trùng dương mà đánh bắt hải sản cho tốt, đem lại cuộc sống ấm no cho dân chài. Vì vậy, điều 1 hương ước quy định: “Tại nghề thợ, nghề chài chọn cử một người năng nổ, liêm chính làm trùm; tại thuyền buôn cần chọn cử một người công chính, đạo nghĩa làm trùm”.
Việc thưởng, phạt cũng phải nghiêm minh và kịp thời để góp phần điều chỉnh các ứng xử, biểu dương điều tốt, phòng ngừa, răn đe điều xấu, cho nên điều 10 của hương ước nói rõ : “Trong làng việc đi biển đánh cá đều theo thứ tự phân định, nếu ai xằng bậy, tham lam, hoành hành bị làng phạt một con heo, giá tiền xưa 5 quan. Còn dân làng theo đó làm ăn, không được giành giựt người ngoài, gây nên sinh sự thì bị xét xử”.
Ở phía cực nam của tỉnh, làng Phú Kinh thuộc xã Diên Sanh cũng là một làng lâu đời tuy chưa phải cổ nhất, nhưng được biết đến nhiều vì có bản hương ước đặc sắc và ra đời sớm nhất ở tỉnh Quảng Trị (cũ). Đây là làng ở vùng đồng bằng nên rất chú trọng đến chuyện đất ruộng. Cũng như bao làng khác, Phú Kinh có tình trạng quan viên, chức sắc của làng chiếm dụng đất tốt, để lại ruộng xấu cho dân nên xảy ra cảnh bất bình đẳng, bất công. Và hiếm hoi khi hương ước của làng lại dũng cảm chỉ rõ điều này bằng văn bản và sau đó điều chỉnh tình cảnh nói trên cũng bằng chính hương ước nên rất được người dân ủng hộ và đồng thuận, tạo nên được tiếng vang tốt lành, dũng khí.
Hương ước cũng đề cao việc khuyến thiện, trừ tà, cổ động tinh thần lập nghiệp “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, coi trọng sự chịu khó, nâng cao tay nghề cũng như làm ăn trọng chữ tín, đề cao sự thật thà, tử tế; phê phán thói hư tật xấu, đả phá tệ nạn xã hội.
Hương ước khá tỉ mỉ, nói rất thuyết phục: “Nghề thợ nếu có công cụ sắc bén, luôn luôn trau dồi nghề nghiệp, sáng chế ra những đồ tinh xảo. Còn những kẻ đi buôn thì cũng nên tính toán sang hèn, tùy theo thời cơ mà giữ khí, không nên chạy theo bọn buôn gian, bán lận, không học đòi theo bọn tụ tập cờ bạc, rượu chè say sưa... để mang tiếng xấu cho xóm làng”. Con dân người làng phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau để tạo nên khối đoàn kết trong xóm, làng: “Sống với nhau trong xã hội cũng cần phải cố gắng giữ gìn mối hòa thuận, kính già yêu trẻ, thương kẻ côi cút tật nguyền, giúp nhau khi đau ốm, cứu nhau khi hoạn nạn, chớ khinh người nghèo hèn, yếu đuối. Luôn luôn giữ mình trong sạch, chớ nên làm những điều lợi mình, hại người”. Ngành chức năng tỉnh Quảng Trị (cũ) đã đề nghị Nhà nước công nhận bản hương ước này là báu vật quốc gia.
Còn dân làng Đông Dương, xã Mỹ Thủy, thì thấm thía câu tục ngữ “Ham của rừng, rưng rưng nước mắt” nên hương ước rất chú trọng việc bảo vệ rừng và đưa thành quy định nếu nhà nào vi phạm phải đem mâm trầu rượu ra đình làng tạ tội và chịu phạt. Và để thiết thực giữ rừng, làng đã thành lập ban bảo vệ rừng hoạt động rất hiệu quả.
Ông Nguyễn Đăng Quang, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Trị chia sẻ: “Có thể nói hương ước xưa, có giá trị về nhiều mặt, là hồn cốt của làng quê Việt trải qua bao đời hun đúc, tạo dựng mà có, làm nên đặc trưng và nhiều nét độc đáo, góp phần hết sức quan trọng trong việc hình thành và vun đắp những rường cột của làng. Nét đặc sắc của hương ước nhìn từ góc độ làng quê vừa có giá trị pháp lý thiết thực, lại vừa giàu ý nghĩa đạo lý trong mọi mặt đời sống, sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy, đây là di sản quý giá cần được nghiên cứu, kế thừa và phát triển trong công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Quảng Trị”.
Hương ước như có nhà nghiên cứu ví von là di sản văn hóa pháp lý. Từ những mỹ tục của hương ước trước đây, chúng ta có thể thừa kế để phát huy bằng cách đưa vào trong hương ước ngày nay sao cho phù hợp với từng làng cụ thể. Những nội dung giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, giữ vệ sinh chung, đề cao đạo lý như chữ hiếu, tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương thân tương trợ, khuyến học khuyến tài, tổ chức đám tang văn minh, tiết kiệm; đóng góp quỹ làng… cần được cụ thể hóa để mọi người, mọi nhà một khi đã thảo luận và nhất trí thì nhất thiết phải tuân theo.
Mặt khác, cần chú ý để lệ làng không mâu thuẫn với phép nước, hương ước phải thống nhất với luật pháp, tránh sa vào lề thói “ Phép vua thua lệ làng”. Hơn nữa, hương ước cũng không phải là nhất thành bất biến mà khi cần thì có thể chỉnh sửa, bổ sung để ngày càng hợp tình, hợp lý, hợp điều kiện đặc thù của từng địa bàn và mang tính khả thi cao.