Huy động 260 tỷ USD cho mục tiêu tăng trưởng 5 năm tới và bài toán về hiệu quả sử dụng đồng vốn
Theo chuyên gia, chúng ta không thể đi mãi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn, mà phải giải bài toán về hiệu quả sử dụng đồng vốn.
Tiền vẫn đang bị “đọng lại” đâu đó
Chia sẻ tại Diễn đàn Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô do Viện Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức sáng 24/12, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng cho biết, dự phóng tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2026 – 2030 ở mức 9-10%/năm.
Để đạt mục tiêu này chúng ta đang đối mặt với khá nhiều thách thức, trong đó có 3 "lực cản" chính.
Thứ nhất là nghịch lý tăng trưởng: Trong khi thế giới đang tăng trưởng chậm lại thì Việt Nam lại đặt mục tiêu tăng tốc. Điều này tạo áp lực cực lớn lên năng suất lao động của mỗi cá nhân.
Thứ hai là độ mở kinh tế lớn khiến Việt Nam cực kỳ dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài.
Thứ ba là điểm nghẽn trong kênh dẫn vốn. Chúng ta mới chỉ bàn nhiều về việc "huy động đủ vốn" mà chưa bàn sâu về "phân bổ vốn hiệu quả".

TS Cấn Văn Lực
TS Cấn Văn Lực cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng nêu trên, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhu cầu vốn cực kỳ lớn. Trong giai đoạn 2026–2030, với kịch bản tăng trưởng 10%, ước tính tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động sẽ tương đương khoảng 39% GDP (khoảng 260 tỷ USD).
“Điểm khác biệt mà tôi muốn nhấn mạnh là: Chúng ta không thể mãi đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn như Trung Quốc hay Hàn Quốc thời kỳ trước. Việt Nam cần hướng tới sự hiệu quả của đồng vốn. Thay vì huy động bằng mọi giá, chúng ta phải tập trung vào việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sao cho tối ưu nhất” – ông nói.
Chỉ ra thực trạng hiệu quả sử dụng đồng vốn của Việt Nam còn thấp, vị chuyên gia nêu một nghịch lý thời gian qua, đó là cung tiền của chúng ta tăng cao nhưng lạm phát vẫn thấp. Cụ thể, trung bình cung tiền của chúng ta tăng khoảng 12-15%/năm nhưng lạm phát vẫn duy trì ổn định mức 3-3,5% suốt 10 năm qua.
“Vậy lý do là gì? Phải chăng là mình giỏi, mình tài?” – vị chuyên gia đặt câu hỏi. Theo phân tích của ông, lạm phát tăng gồm 2 yếu tố chính, một là giá cả và hai là yếu tố tiền tệ. Lạm phát của chúng ta thấp, ông cho rằng, câu trả lời nằm ở vòng quay tiền.
Thực tế, vòng quay tiền của Việt Nam đang chậm lại (chỉ khoảng 0,6 – 0,7 lần). “Chúng ta không muốn nhanh quá, bởi vì nhanh quá sẽ khiến cho lạm phát tăng nhanh trở lại. Thế nhưng nếu chậm quá thì có nghĩa tiền đang bị "đọng" lại đâu đó trong hệ thống và chưa luân chuyển mạnh vào sản xuất kinh doanh. Đây là lý do lạm phát không bùng phát, nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn cần phải xem xét lại” – vị chuyên gia phân tích.

Đa dạng nguồn vốn để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng
Liên quan đến câu chuyện tín dụng cho nền kinh tế, TS Cấn Văn Lực cho rằng, gần đây có nhiều thông tin cho rằng người dân vẫn ồ ạt gửi tiền vào ngân hàng, và cho rằng ngân hàng đang “thừa tiền” mà không cho vay được. Theo vị chuyên gia, đây là hiểu lầm về con số.
“Thực tế, tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn tăng trưởng huy động vốn (lệch pha khoảng 3 điểm %). Dư nợ tín dụng hiện nay đạt trên 17 triệu tỷ đồng, trong khi tổng vốn huy động chỉ gần 15 triệu tỷ đồng.
Như vậy, hệ thống ngân hàng đang thiếu hụt khoảng 2 triệu tỷ đồng so với nhu cầu, thanh khoản không hề dồi dào như chúng ta lầm tưởng. Đó cũng là lý do lãi suất huy động buộc phải nhích lên để hút vốn, dù lãi suất cho vay vẫn đang nỗ lực giữ ổn định theo chỉ đạo của Chính phủ” – vị chuyên gia cho biết.
Theo ông Lực, một rủi ro lớn hiện nay là nền kinh tế đang quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng (chiếm hơn 50% tổng cung vốn). Tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã lên tới khoảng 147%, mức rất cao so với quy mô nền kinh tế.
Do đó, để giải bài toán vốn cho tăng trưởng, chúng ta không thể "trông chờ" mãi vào ngân hàng. Giải pháp cấp bách là phải phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu để dẫn vốn trung và dài hạn.
Cùng với đó là các giải pháp như: khai thác các nguồn tài chính bền vững, tài chính xanh, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, phát triển thị trường tài sản số…












