'Khai phóng' đất bãi sông, bãi nổi: Mạnh chính sách, mới cách làmBài 2: Vì sao vùng đất bãi chưa 'thức giấc'?
Vùng đất bãi ven sông Hà Nội vốn được coi là 'mỏ vàng' của nông nghiệp sinh thái, du lịch trải nghiệm, không gian xanh bảo vệ môi trường đô thị.
Song, nhiều năm qua, dường như tiềm năng của vùng đất bãi vẫn chưa được đánh thức đúng tầm mức; việc khai thác đất, canh tác tại đây còn nhỏ lẻ nên hiệu quả thấp... Qua tìm hiểu, phóng viên Báo Hànôịmới nhận thấy, không phải thiếu ý tưởng hay mô hình, mà điểm nghẽn nằm ở sự chồng chéo của quy định pháp luật, bất cập trong quản lý cùng khoảng trống về cơ chế...

Mô hình trồng bưởi tại vùng đất bãi sông Hồng ở thôn Vân Hà (xã Phúc Lộc) mang lại thu nhập ổn định.
Luật chồng luật, chính sách thiếu nhất quán
Nguyên nhân sâu xa khiến vùng đất bãi ven sông Hà Nội rơi vào tình trạng lãng phí, kém phát triển xuất phát từ những chồng chéo trong hệ thống pháp luật. Sự chồng chéo này làm mất nhiều thời gian trong việc giải quyết các thủ tục và khiến các địa phương... không biết bắt đầu từ đâu.
Tại xã Bất Bạt - địa phương ven sông Đà, Phó Chủ tịch UBND xã Hứa Bá Trình chia sẻ: “Chúng tôi muốn phát triển mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch, đã có nhà đầu tư quan tâm, nhưng khi gửi hồ sơ thì “bên đê điều” không đồng ý, “bên xây dựng” lại bảo không đủ điều kiện… Cuối cùng, tất cả đành… thôi. Ngay cả đối với việc sử dụng đất bãi - quỹ đất công của xã đã cho doanh nghiệp thuê thầu để làm vùng đệm cây xanh phát triển du lịch, nhưng đến nay cũng vướng hành lang pháp lý liên quan đến đất đai, thủ tục, khiến doanh nghiệp nản chí".
Ông Nguyễn Đức Minh, chủ vườn sinh thái Phúc Thọ Hoa Bay (xã Phúc Lộc) bày tỏ tâm tư, phát triển nông nghiệp gắn với du lịch là hướng đi được Đảng, Nhà nước khuyến khích. Mô hình này cũng đã khẳng định hiệu quả cao so với chỉ sản xuất nông nghiệp thông thường. Tuy nhiên, các chủ mô hình đang gặp rất nhiều rào cản về cơ chế, chính sách, nhất là việc xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ du khách. Muốn đón khách tham quan, phải xây dựng được hạ tầng thiết yếu như giao thông, bãi đỗ xe, nhà vệ sinh, khu dịch vụ phụ trợ… Thế nhưng, nhiều năm qua việc thực hiện đều vướng các quy định của pháp luật. Do đó, rất cần cơ quan chức năng tháo gỡ bằng cơ chế đặc thù, hướng dẫn người dân triển khai dự án, vừa bảo đảm phát triển kinh tế, vừa tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật...
Thực tế, nhiều năm qua, các quy định của Luật Đê điều, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Phòng, chống thiên tai... cùng các quy hoạch liên quan đã vô tình đẩy vùng đất bãi vào "ma trận" pháp lý, muốn làm gì cũng khó. Bên cạnh đó, thành phố cũng chưa có cơ chế riêng đủ mạnh để định hướng, khơi thông nguồn lực phát triển cho khu vực vốn được coi là “chiến lược xanh” của Thủ đô.
Theo Luật Đê điều hiện hành (sửa đổi năm 2020), việc xây dựng bất kỳ công trình nào trong phạm vi bãi sông, kể cả hạng mục đơn giản như nhà sơ chế nông sản, nhà vệ sinh, khu trải nghiệm học đường... đều phải trải qua quy trình rất phức tạp: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thẩm định, sau đó trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt..., nên người dân, doanh nghiệp khó thực hiện. Điều này đồng nghĩa hàng chục nghìn héc ta đất bãi vẫn “đứng ngoài” dòng chảy phát triển.
Không những vậy, nhiều văn bản pháp luật khác cũng khiến đất bãi bị “giam chân”. Luật Đất đai không cho phép xây dựng trên đất nông nghiệp; Luật Đê điều “cấm tuyệt đối” việc xây mới công trình trong phạm vi thoát lũ. Các luật: Xây dựng, Phòng, chống thiên tai, Môi trường... đều có những điều khoản liên quan đến vùng đất này, nhưng thiếu sự phối hợp đồng bộ. Hệ quả là, hầu hết ý tưởng, kế hoạch, dự án liên quan đến khai thác đất bãi từ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đến du lịch sinh thái đều khó thành hiện thực, nhiều ý tưởng chết yểu ngay từ giai đoạn xin phép...
Một rào cản khác là sự phân mảng trong quản lý. Trên giấy tờ, đất bãi chịu sự chi phối của nhiều loại quy hoạch: Quy hoạch thoát lũ, quy hoạch đê điều, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng và cả quy hoạch phát triển Thủ đô. Về quản lý chuyên ngành cũng có nhiều cơ quan tham gia: Ngành Nông nghiệp quản lý sản xuất; ngành Đê điều quản lý an toàn dòng chảy; ngành Xây dựng quản lý hạ tầng; ngành Tài nguyên - Môi trường quản lý đất đai; ngành Du lịch quản lý phát triển dịch vụ...
Sự chồng chéo về pháp luật và thiếu đồng bộ trong chính sách đã tạo ra vòng luẩn quẩn: Người dân không dám đầu tư vì sợ rủi ro pháp lý; doanh nghiệp e ngại rót vốn vì thủ tục phức tạp và thiếu tính ổn định; chính quyền cơ sở thì “đứng giữa” nhiều quy định chồng chéo, không biết áp dụng luật nào... Kết quả, vùng đất bãi - “vành đai xanh”, “mỏ vàng tiềm năng” của Thủ đô vẫn chưa thể phát huy tối đa giá trị...
Những điểm nghẽn nội tại
Ngoài những ràng buộc pháp lý của các luật, còn không ít “nút thắt” khác kìm hãm sự phát triển của vùng đất bãi. Trước hết là thủ tục hành chính phức tạp, thiếu minh bạch, khiến doanh nghiệp và người dân e ngại đầu tư lâu dài; các hợp tác xã nông nghiệp là nòng cốt trong phát triển sản xuất khu vực vùng bãi cũng rơi vào thế bị động. Được giao đất sản xuất theo Nghị định số 64-CP, ngày 27-9-1993 của Chính phủ quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, nhưng thực tế, họ chỉ có thể dừng lại ở những mô hình canh tác đơn giản (trồng ngô, rau màu...). Khi muốn chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng nhà màng, nhà lưới thì vướng rào cản lớn: Chưa có định mức kinh tế - kỹ thuật, chưa có hướng dẫn cụ thể và quan trọng hơn cả là… không được cấp phép xây dựng.
Theo Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Hà Nội Xanh (xã Liên Minh) Bá Thị Nguyệt Thu, quy hoạch ở địa phương chưa rõ ràng khiến các mô hình chỉ dám sản xuất cầm chừng theo thời vụ, chưa phát huy được sự đa dạng sản phẩm như nông sản, dịch vụ du lịch nông nghiệp trải nghiệm..., đặc biệt là quy hoạch vùng trồng đặc trưng phát huy tối đa giá trị sản xuất. Hiện đã có một số văn bản của Nhà nước hướng dẫn về việc khai thác, phát triển không gian sông Hồng, đất bãi ven sông để phát huy hiệu quả kinh tế nông nghiệp, nhưng các đơn vị như hợp tác xã và nhiều nông dân vẫn khó triển khai, chưa nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương...
Bên cạnh đó, vốn, công nghệ và sự hỗ trợ nông dân vùng đất bãi cũng hạn chế, trong khi hạ tầng thiết yếu như giao thông, thủy lợi, kho bãi, chợ đầu mối... chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Một nguyên nhân quan trọng nữa là tư duy quản lý và tổ chức thực thi chậm đổi mới, nhiều nơi nông dân “giữ đất là chính”, thay vì coi đó là không gian phát triển kinh tế sinh thái. Thêm vào đó, sản phẩm từ vùng đất bãi còn yếu về thương hiệu, thiếu liên kết chuỗi giá trị, nên khó mở rộng thị trường tiêu thụ...
Hàng loạt những điểm nghẽn nêu trên đã khiến lợi thế đất bãi chưa thể biến thành động lực phát triển mạnh mẽ cho Thủ đô. Tại xã Minh Châu với 100% diện tích ngoài đê sông Hồng, theo Chủ tịch UBND xã Bùi Thái Sơn, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Minh Châu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, đặt ra mục tiêu đưa “xã đảo” trở thành điểm đến văn minh, hiện đại, hạnh phúc, là trung tâm du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái hấp dẫn của Thủ đô. Chủ trương, định hướng đã rõ, người dân ủng hộ, nhưng nếu không tháo gỡ vướng mắc đất đai, chắc chắn đích đến còn rất xa vời. Doanh nghiệp có thể thích thổ nhưỡng màu mỡ, khí hậu trong lành, cộng đồng thân thiện, nhưng nếu hành lang pháp lý không rõ ràng, thì khó có thể thu hút nhà đầu tư có tiềm lực...
Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Ao Vua (xã Suối Hai) Chu Văn Tuấn trăn trở, công ty có 1 phần diện tích (hơn 10ha) thuộc đất bãi ven sông Đà, do xã Bất Bạt quản lý. Sau hơn 10 năm khai thác, sử dụng và thuê lại diện tích này, doanh nghiệp luôn phải “chạy” theo những thay đổi về chính sách đất đai. Có thời điểm được huyện Ba Vì (cũ) cho thuê dài hạn, nhưng cũng có giai đoạn lại yêu cầu giao về địa phương tổ chức đấu thầu, gây ra nhiều xáo trộn trong hoạt động.
Theo ông Chu Văn Tuấn, diện tích đất bãi này, doanh nghiệp chỉ sử dụng làm vùng đệm xanh, trồng hoa, cây cảnh, tạo cảnh quan phục vụ khu du lịch, song việc triển khai bất kỳ công trình tạm nào cũng đều không thực hiện được. Vướng ở quy định không cho xây dựng công trình và thay đổi về thủ tục pháp lý liên quan tới đất đai, khiến việc sử dụng quỹ đất bãi ven sông gặp nhiều rào cản hơn bao giờ hết...
Vậy đã rõ, vùng đất bãi chưa thể phát triển chủ yếu ở rào cản chính sách và cơ chế quản lý. Chỉ khi tháo gỡ những chồng chéo pháp luật, đơn giản hóa thủ tục, cơ chế đặc thù rõ ràng, thì vùng đất bãi của Hà Nội mới thực sự được "thức giấc", phát huy tiềm năng trở thành khu vực phát triển nông nghiệp hiện đại, du lịch sinh thái, đời sống người dân sung túc, môi trường trong lành.
(Còn nữa)