Khai thác tiềm năng điện gió ngoài khơi

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Đảng và Nhà nước ta xác định mục tiêu lắp đặt từ 6-17 GW điện gió ngoài khơi (ĐGNK) giai đoạn 2030-2035. Một số tổ chức trong nước và quốc tế đã có những nghiên cứu sơ bộ về tiềm năng điện gió ngoài khơi.

Vùng biển Việt Nam có tiềm năng to lớn để phát triển điện gió ngoài khơi. (Ảnh: TTXVN)

Vùng biển Việt Nam có tiềm năng to lớn để phát triển điện gió ngoài khơi. (Ảnh: TTXVN)

Tất cả dường như đang chờ một “cú huých” đủ mạnh để tạo đột phá phát triển cho ngành năng lượng thân thiện với môi trường này.

Tiềm năng to lớn

Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đều đã chỉ ra rằng, nước ta có tiềm năng rất lớn để phát triển . Việt Nam có hơn 3.260km đường bờ biển, lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Lưu lượng gió trên vùng biển nước ta, đặc biệt là Biển Đông, có mật độ rất cao và liên tục.

Theo báo cáo của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, vùng biển Vịnh Bắc Bộ và khu vực Ninh Thuận-Vũng Tàu, tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió trung bình đạt khoảng 500W/m2. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy, diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta (EEZ) có thể xây dựng điện gió lên tới hơn 300.000km2. Tổng công suất kỹ thuật có thể thu được hơn 1.000GW. Trong khi đó, vùng nước ven bờ (khoảng cách dưới 6 hải lý), tổng công suất có thể thu được khoảng 58GW.

Ngân hàng Thế giới (WB) cũng tổ chức thực hiện nhiều nghiên cứu về tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi nước ta. Theo đó, đã xác định sơ bộ 14 lô có thể hình thành trang trại điện gió. Tổng công suất phát điện đạt khoảng 6GW vào năm 2030 và 40GW vào năm 2040, phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia. Nghiên cứu của WB tính toán phương án phù hợp với công nghệ móng cố định ngoài khơi, bao gồm chi phí sản xuất điện quy dẫn (LCOE) thấp nhất và những ảnh hưởng có thể có đối với đa dạng sinh học biển cũng như một số yếu tố xã hội khác.

Tiến sĩ Dư Văn Toán, Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), người có nhiều năm nghiên cứu về điện gió ngoài khơi cho biết: Một số nước Bắc Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc... đã xây dựng các trang trại điện gió ngoài khơi từ hàng chục năm trước. Đặc biệt là Trung Quốc hiện nay đã có công suất phát điện của điện gió ngoài khơi đạt khoảng từ 40-50GW, cao hơn hàng chục GW so với các nước châu Âu và cao hơn nhiều lần Hoa Kỳ.

Bên cạnh mục tiêu Net Zero, điện gió ngoài khơi có nhiều thuận lợi khác như không chiếm dụng diện tích đất đai lớn, không gây ô nhiễm tiếng ồn, góp phần giảm áp lực về sử dụng điện cho nền kinh tế và áp lực cung cấp điện cho các cơ sở năng lượng truyền thống. Ngoài ra, với tiềm năng rất lớn của vùng biển nước ta, việc sử dụng điện gió ngoài khơi cho mục đích kinh doanh không phải là không khả thi.

Những khó khăn trong việc lắp đặt, vận hành điện gió ngoài khơi trong thời điểm hiện nay cũng không còn là thách thức do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Các tua-bin điện gió ngoài khơi hiện nay trên thế giới đều đang sử dụng công nghệ cánh quạt trục ngang và trục đứng có công suất phát điện lớn và hoạt động bền bỉ. Tuy nhiên, giá thành lên tới hàng chục triệu USD cho một tua-bin điện gió sẽ “kén” nhà đầu tư. Trong khi đó, với tuổi thọ khoảng 35 năm hoạt động của một tua-bin gió, bên cạnh những nghiên cứu kỹ lưỡng về các điều kiện phát điện thì những cam kết đối với việc sử dụng điện gió cũng rất được nhà đầu tư coi trọng.

Nhiều thách thức cần vượt qua

Theo ông Stuart Livesey, Trưởng đại diện tại Việt Nam của Tập đoàn năng lượng Đan Mạch Copenhagen Infrastructure Partners (CIP): Sự phát triển của ngành năng lượng điện gió ngoài khơi thế giới trong khoảng 20 năm trở lại đây đã tạo ra khoảng 300.000 lao động trong giai đoạn xây dựng và phát triển, khoảng 22.000 lao động tham gia vận hành.

Trong số lao động vận hành, có rất nhiều người chuyển đổi từ ngành dầu khí, điện khí, nhiệt điện và cơ khí. Việc vận hành điện gió ngoài khơi cũng là cơ hội để đào tạo mới một số ngành nghề liên quan như chuyên gia môi trường, quản lý dự án, cơ điện...

Đáng chú ý, mới đây, CIP cũng phát triển điện gió ngoài khơi ở Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc kết hợp hình thành chuỗi cung ứng, dịch vụ, cảng biển và phát triển xanh cho doanh nghiệp và địa phương nơi lắp đặt tua-bin, cho thấy hiệu quả về kinh tế-xã hội là rất lớn.

Tại Việt Nam, mặc dù đã được nghiên cứu từ nhiều năm trước nhưng ngành năng lượng tái tạo, nhất là điện gió ngoài khơi chưa có sự quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, những tiềm năng của điện gió ngoài khơi thật sự được “cởi trói” kể từ Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Luật Điện lực năm 2024 và Quy hoạch điện lực quốc gia (Quy hoạch điện VIII sửa đổi) cho phép phát triển tới 139GW năng lượng điện gió ngoài khơi vào năm 2050. Theo ước tính, giá trị tại thời điểm đó sẽ đạt khoảng 420 tỷ USD. Đến thời điểm này, hầu hết những tính toán về tiềm năng điện gió ngoài khơi nước ta mới chỉ là sơ bộ, dựa trên kết quả quan trắc nhiều năm của cơ quan khí tượng, hải văn cộng với phương pháp đo đạc quy mô nhỏ về gió; dữ liệu hải dương-khí tượng; khảo sát môi trường trong thời gian 12 tháng của WB.

Mặc dù những dữ liệu khảo sát đã cho thấy cái nhìn tương đối rõ nét về tiềm năng của điện gió ngoài khơi cũng như có thể cung cấp cơ sở dữ liệu để tính toán chi phí sản xuất điện, xây dựng biểu giá điện; giảm thiểu rủi ro trong việc lựa chọn khu vực phát triển; đẩy nhanh tiến độ bằng cách thu thập dữ liệu quan trọng, dài hạn nhằm lựa chọn nhà đầu tư; các thông số môi trường...

Tuy nhiên, những thông số về địa vật lý và địa kỹ thuật của toàn bộ vùng biển ngoài khơi chưa có đánh giá chi tiết. Chưa kể đến, nhiều đánh giá về an ninh quốc phòng, an toàn hàng hải... cũng chưa được đề cập. Điều đó cho thấy, còn nhiều việc phải làm để ngành điện gió ngoài khơi có thể vươn mình trở thành một trong những ngành kinh tế lớn mạnh và có vai trò quan trọng trong hành trình Net Zero.

Để làm được điều đó, cần phải xây dựng lộ trình cụ thể và quyết liệt; cơ quan chức năng cần cập nhật thông tin giới hạn về vùng phát triển; đầu tư hiện đại cho hệ thống quan trắc biển; nghiên cứu, đánh giá chi tiết tiềm năng kinh tế, thị trường của năng lượng gió ngoài khơi; mở rộng nghiên cứu tiềm năng khai thác năng lượng biển khác như sóng, thủy triều và các ngành kinh tế biển; xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu khí tượng hải văn; tham khảo kết quả nghiên cứu về điện gió ngoài khơi và các nguồn năng lượng biển khác vào ban hành quy hoạch điện...

Vấn đề chuyển dịch từ sử dụng năng lượng truyền thống sang các loại hình năng lượng xanh là xu hướng của toàn thế giới trong mục tiêu Net Zero toàn cầu. Từ những mô hình trên thế giới cho thấy, lợi ích mà điện gió ngoài khơi mang lại chắc chắn sẽ góp phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế; bảo đảm an ninh năng lượng; bảo đảm thực thi cam kết của Việt Nam tại COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

TRẦN THƯỜNG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/khai-thac-tiem-nang-dien-gio-ngoai-khoi-post890214.html