Khát vọng hòa bình-Cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam
Nhiều nhà sử học và viện nghiên cứu danh tiếng trên thế giới đã dành không ít thời gian, công sức, trí tuệ để luận giải và tìm câu trả lời: Nguyên nhân cơ bản nào mà Việt Nam - một quốc gia đất không rộng, người không đông mà trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đã đánh thắng nhiều thế lực xâm lược hùng mạnh.
Câu trả lời tựu trung là: Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản, bao trùm là xuất phát từ khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Với khát vọng hòa bình, dân tộc ta đã đoàn kết một lòng, huy động sức người, sức của, nhân lực, tài lực..., đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Văn hóa giữ nước cũng dần được hình thành, lớn mạnh tạo sức mạnh tổng hợp ở từng địa phương, vùng miền, tạo sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc quyết tâm đánh thắng quân xâm lược, trong đó có cả những thế lực hùng mạnh nhất ở từng thời đại trong lịch sử nhân loại.
Từ khát vọng hòa bình, mong muốn được sống bình yên trên quê hương mình, Tổ quốc mình, dân tộc ta đã đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động không quản ngại gian khổ, hy sinh, dám đánh, quyết đánh và biết giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược. Các thế hệ người dân Việt Nam rất đỗi tự hào về nghệ thuật quân sự đánh giặc giữ nước của cha ông ta, như: Bỏ kinh thành để kiêu lòng giặc, thực hiện vườn không-nhà trống, dàn mỏng lực lượng địch; lấy yếu chống mạnh, lấy đoản binh thắng trường trận, phát động chiến tranh nhân dân rộng khắp kết hợp với các đòn tiến công của lực lượng chủ lực…
Về ý chí chống xâm lược, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên (thế kỷ XIII), không may bị sa vào tay giặc, tướng quân Trần Bình Trọng đã nói một câu nói bất hủ “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Thủ lĩnh tướng quân Nguyễn Trung Trực trong kháng chiến chống thực dân Pháp bị sa vào tay giặc không chấp nhận đầu hàng và khẳng khái nói: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Nữ Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Út Tịch với câu nói nổi tiếng: “Còn cái lai quần cũng đánh”… Đúng là: “Giặc đến đất này nhành cây cũng hóa mũi tên bay”. Ngày 19-12-1946, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến: “… Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc… Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Lời kêu gọi đó cũng là sự tóm lược và khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Người dân ngồi chờ xem tổng duyệt diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Ảnh minh họa: qdnd.vn
Có thể nói, ít có quốc gia, dân tộc nào trên thế giới từng chịu nhiều đau thương, mất mát do các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực ngoại bang như dân tộc Việt Nam, do vậy chúng ta càng hiểu rõ giá trị của hòa bình, độc lập, tự do. Chỉ riêng trong thế kỷ XX, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đất nước bị tàn phá, hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề. Do vậy, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình, độc lập, thống nhất của quốc gia luôn là mưu lược, kế sách cao nhất, là mục tiêu chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và của cả dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, để đạt được điều đó, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung, yêu cầu sau:
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định, lãnh đạo dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cả trong chiến tranh và trong hòa bình xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, hùng cường. Song cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, cơ chế lãnh đạo, chức năng nhiệm vụ ở từng cấp cho sát với sự vận động của thực tiễn công cuộc đổi mới. Đặc biệt là cơ chế tuyển dụng nhân tài, trong đó luôn coi trọng thực hiện tốt chế độ trách nhiệm cá nhân ở tất cả các cấp; có cơ chế chặt chẽ giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, không để chồng chéo phạm vi, chức năng nhiệm vụ, kiên quyết chống tham ô, lãng phí, lợi ích nhóm…
- Nhân loại đã và đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, là thời kỳ bùng nổ thông tin nhiều tầng, đa diện, tác động từng ngày, từng giờ đến mọi tầng lớp nhân dân, đến mọi vùng miền. Các cơ quan chức năng cần thường xuyên có các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hữu hiệu thông tin xấu độc, làm tốt công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân; đề cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang khẩn trương, đồng loạt tiến hành đổi mới thể chế, thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, phát triển kinh tế tư nhân… Đây thực sự là cuộc cách mạng về nhận thức và hành động, những quyết sách đúng đắn của Đảng đã đáp ứng đòi hỏi cấp thiết từ chính sự nghiệp cách mạng của dân tộc, làm nức lòng và củng cố niềm tin của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Để nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước nhanh chóng đi vào thực tiễn, đòi hỏi phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở tất cả các cấp, kịp thời rút kinh nghiệm, chỉ rõ ưu điểm để phát huy, khắc phục kịp thời những sai sót lệch lạc. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền về phạm vi chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là cấp xã, phường mới thành lập sau sáp nhập để nhân dân thực hiện và giám sát hoạt động.
- Về đối ngoại, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194/200 quốc gia trên toàn thế giới, trong đó Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia, đối tác chiến lược với 10 quốc gia và đối tác toàn diện với 15 quốc gia. Hầu hết các nước lớn, các nước có nền kinh tế phát triển… đều có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược với Việt Nam. Đây là thành tựu to lớn về lãnh đạo công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, là nhân tố đặc biệt quan trọng phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, mở rộng đối tác, thu hẹp hạn chế và bất đồng, nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, cần tiếp tục đẩy mạnh chính sách đối ngoại đa tầng, gồm: Đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại và giao lưu nhân dân, giao lưu và hợp tác của các tổ chức chính trị-xã hội… trước hết là các nước lớn, các nước có chung đường biên giới, các nước trong khu vực và bạn bè truyền thống. Phát huy cao nhất vai trò, huy động nguồn lực của khoảng 6 triệu người Việt Nam ở nước ngoài cùng tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quảng bá sâu rộng đến bạn bè quốc tế hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, về lịch sử, truyền thống dựng nước và giữ nước, truyền thống văn hóa, hòa hiếu trọng tình nghĩa, thông minh và cần cù, sáng tạo… Đây chính là “sức mạnh mềm” của dân tộc ta trong quá trình mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế.
- Xây dựng lực lượng vũ trang thường trực (quân đội, công an) tinh - gọn - mạnh tiến lên hiện đại là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với khả năng của đất nước và những biến động nhanh, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, để lực lượng vũ trang xứng đáng là nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Cùng với thực hiện mục tiêu phương hướng trên, cần chuẩn bị tốt kế hoạch sẵn sàng mở rộng quy mô tổ chức, lực lượng, phương tiện… bảo đảm luôn có đủ khả năng, sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
- Cùng với đổi mới hệ thống chính trị, tinh gọn tổ chức bộ máy ở các cấp, cần khẩn trương điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn kiện, xây dựng khu vực phòng thủ phù hợp với nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế; cơ cấu lại tổ chức lực lượng, phương tiện; tổ chức luyện tập, diễn tập các tình huống chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến, diễn tập thực binh, trọng tâm là cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chăm lo xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, xử lý kịp thời các tình huống, không để bị động bất ngờ, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng yếu của đất nước. Thực tiễn hiện nay đòi hỏi cần nghiên cứu bổ sung các văn bản quy phạm của luật về xây dựng, hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ, nhất là dân quân tự vệ ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân..., bảo đảm cho lực lượng này được huấn luyện sát thực tế, có chất lượng và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao; xây dựng lực lượng dự bị động viên có chiều sâu, được quản lý, huấn luyện tốt. Đây là những lực lượng thành tố hết sức quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân.
Ý chí quyết tâm đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường trở thành sức mạnh chính trị tinh thần to lớn, thành tiềm thức và niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới- “kỷ nguyên vươn mình”, xây dựng nước Việt Nam hùng cường “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Sức mạnh xây dựng đất nước và bảo vệ hòa bình của dân tộc ta đang ngày càng được khẳng định, là sức mạnh đại đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của hơn 100 triệu người dân Việt Nam, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.