KHCN 'chắp cánh' cho thể thao bay cao
Thể dục thể thao (TDTT) vốn là một phạm trù rộng, bao gồm từ các phương thức rèn luyện sức khỏe nói chung (TDTT cho mọi người) tới các môn thể thao thi đấu, cạnh tranh thành tích (thể thao thành tích cao). Nhân dịp SEA Games 33 đang diễn ra tại Thái Lan, trong phạm vi bài viết nhỏ này, tôi chỉ xin trao đổi về một khía cạnh: Ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) có ý nghĩa như thế nào trong thể thao? Và khoa học thể thao Việt Nam đang ở đâu trên 'bản đồ' thế giới?
Ứng dụng khoa học công nghệ đã thay đổi thể thao thế giới
Nhắc đến các yếu tố tác động lên chất lượng của thể thao thành tích cao (cạnh tranh thành tích thông qua thi đấu), điều người ta thường nghĩ đến đầu tiên đương nhiên là nỗ lực tập luyện của vận động viên (VĐV), kinh nghiệm của các huấn luyện viên (HLV), sự đầu tư về kinh phí của các cơ quan quản lý, đơn vị chủ quản dành cho trang thiết bị tập luyện, cơ hội tập huấn - thi đấu quốc tế; rồi cơ chế chính sách đãi ngộ, sự ủng hộ của người hâm mộ cũng như sự quan tâm của giới truyền thông… Nhưng dù bạn có kể tới bao nhiêu yếu tố tương tự đi chăng nữa, mà chưa nhắc đến ứng dụng KHCN trong thể thao thành tích cao thì đều sẽ là một thiếu sót rất lớn.

Áp dụng KHCN trong thể thao đang là xu hướng chung của thể thao thế giới.
Trong tổ chức, điều hành thi đấu, từ lâu chúng ta đã nghe đến “hawk eye” (công nghệ mắt diều hâu) giúp trọng tài quần vợt, cầu lông hay bóng chuyền hạn chế sai sót; công nghệ “goal line” rồi “VAR” trong bóng đá… Cũng từng có không ít bài báo, thước phim về cách các VĐV bóng đá, điền kinh, bơi hàng đầu thế giới được “chăm sóc” tận tình bằng cả một đội ngũ các nhà khoa học, y học thể thao như thế nào.
Xin được tóm tắt một số “tính năng” phổ biến của khoa học thể thao thế giới áp dụng đối với các VĐV cạnh tranh huy chương tại các kỳ Olympic trong khoảng 2 thập kỷ trở lại đây như:
* Kết hợp kỹ thuật cải tiến, chương trình tập luyện được điều chỉnh với các phương pháp phục hồi tiên tiến. Sử dụng dữ liệu từ các thiết bị công nghệ cao như cảm biến chuyển động và trí tuệ nhân tạo (AI) để tinh chỉnh kỹ thuật của VĐV, cá nhân hóa lịch trình tập luyện và quản lý tình trạng mệt mỏi cũng như phục hồi.
* Sử dụng dữ liệu và công nghệ với camera tốc độ cao và công nghệ ghi hình chuyển động giúp phân tích chuyển động của VĐV. Theo dõi hiệu suất với thiết bị theo dõi và cảm biến đeo được thu thập dữ liệu thời gian thực về sinh lý của VĐV; Tăng cường tập luyện và phục hồi; Phòng ngừa chấn thương và phục hồi chức năng, dinh dưỡng chuyên biệt phù hợp…
Thông qua khoa học công nghệ, các VĐV cũng được hỗ trợ về tâm lý, giúp giải quyết vấn đề tinh thần trong thi đấu đỉnh cao. Bên cạnh đó, công cụ AI cũng có thể phân tích, cung cấp thông tin chi tiết về điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ, mang lại cho VĐV lợi thế chiến thuật.
Tới đây xin được dẫn chứng kinh nghiệm từ hệ thống khoa học công nghệ thể thao của Trung Quốc - từ nền thể thao hàng đầu đã vươn lên số 1 châu Á, số 2 thế giới (chỉ sau Mỹ) trong nhiều kỳ Olympic nhờ tận dụng tối đa tiến bộ của KHCN. Đầu não trong lĩnh vực này là Viện Khoa học Thể thao Trung Quốc (CISS, thành lập năm 1958) đóng vai trò đầu tàu trong nghiên cứu sinh lý, tâm lý và kỹ thuật thể thao. CISS nghiên cứu toàn diện các lĩnh vực: sinh lý học vận động, y học thể thao, sinh cơ học, dinh dưỡng, tâm lý học thể thao, công nghệ huấn luyện và phục hồi. Nhiều công nghệ mới, như camera phân tích chuyển động, robot huấn luyện, AI huấn luyện kỹ thuật, đều được thử nghiệm và phát triển tại đây trước khi đưa vào ứng dụng rộng rãi.
Trong những năm qua, nhiều đội tuyển thể thao Trung Quốc áp dụng phân tích chuyển động, sinh cơ học và hệ thống video phân tích, đặc biệt ở các môn như nhảy cầu, thể dục dụng cụ, vật, điền kinh… Hệ thống camera tốc độ cao và phần mềm phân tích cho phép HLV và nhà khoa học phát hiện sai số kỹ thuật ở mức cực nhỏ, qua đó tối ưu hóa góc độ, vận tốc và chuỗi chuyển động.

Nhiều VĐV trên thế giới mong muốn được tập với máy bóng bàn hiện đại nhất do Trung Quốc sản xuất.
Với những môn đòi hỏi lặp kỹ thuật (bóng bàn, bắn súng, quần vợt), robot huấn luyện đã được ứng dụng rộng rãi cho VĐV từ tuyến năng khiếu cấp tỉnh. AI cũng được sử dụng phổ biến trong phân tích kỹ thuật, lập bài tập cá nhân hóa và cung cấp phản hồi gần như theo thời gian thực cho HLV và VĐV. Song song với đó là việc thu thập dữ liệu liên tục cho phép các VĐV tối ưu hóa tải tập, giảm quá tải và quyết định tái tạo chu kỳ huấn luyện. Các VĐV hàng đầu của Trung Quốc cũng được áp dụng chương trình dinh dưỡng cá thể hóa, phục hồi bằng công nghệ và kiểm soát viêm/chấn thương bằng liệu pháp vật lý nhằm tăng hiệu quả thi đấu và rút ngắn thời gian hồi phục.
Thể thao Việt Nam đã và đang “chậm chân” trong xu thế mới?
Trong xu thế ấy, một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan hay Singapore được xem là khá nhanh nhạy trong áp dụng KHCN vào công tác huấn luyện, đào tạo VĐV.
Trung tâm Khoa học thể thao Thái Lan đóng tại Bangkok là nơi không chỉ trực tiếp theo dõi, chăm sóc một số VĐV đỉnh cao mà còn hỗ trợ khoa học thể thao đối với hệ thống đào tạo thể thao học đường (vốn rất mạnh) tại nước này. Nhiều liên đoàn thể thao quốc gia của Thái Lan cũng được Ủy ban Olympic nước này cổ vũ, hướng dẫn để triển khai phòng nghiên cứu thí nghiệm sinh cơ thể thao. Đặc biệt, mạng lưới trung tâm y tế, bệnh viện, đào tạo bác sĩ thể thao của Thái Lan cũng phát triển hàng đầu khu vực, qua đó cung cấp nguồn nhân lực đầy đủ cho các CLB, trung tâm đào tạo VĐV khắp cả nước.
Singapore thì chọn cách tập trung chăm sóc một số VĐV trọng điểm kiểu “gà nòi”. Xin lấy ví dụ từ Joseph Schooling - VĐV từng giành HCV Olympic nội dung 100 m bơi bướm ở Rio 2016. Anh được đầu tư đặc biệt, với thời gian dài đào tạo ở Mỹ cũng như một mạng lưới hỗ trợ khoa học thể thao. Vai trò nổi bật thuộc về phân tích sinh cơ (biomechanics), dinh dưỡng thể thao, giám sát hiệu năng và các dịch vụ hiệu suất cao khác. Trong giai đoạn thi đấu tại Rio, Schooling làm việc trực tiếp với kỹ sư sinh học Ryan Hodierne - chuyên gia hàng đầu trong phân tích băng hình các đối thủ, mô phỏng chuyển động và tư vấn “choreography” (biên đạo chuyển động) tối ưu cho từng giai đoạn của cuộc đua.
Có thể nói là thể thao Việt Nam tương đối chậm chân so với không chỉ các cường quốc thể thao của châu lục mà cả một vài quốc gia trong khu vực trong lĩnh vực này. Nhìn chung, cách quản lý và huấn luyện thể thao thành tích cao của chúng ta vẫn mang nặng tính “kinh nghiệm chủ nghĩa”. Thể thao Việt Nam cũng từng tổ chức một số hội thảo liên quan tới phát triển, ứng dụng KHCN trong thể thao thành tích cao, xem đó như một trong những nhóm giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng các môn thể thao trọng điểm trên trường quốc tế, nhưng hàm lượng thực tiễn trong ứng dụng thì còn khá thấp.

Hội thảo ứng dụng KHCN vào thể thao tại TP.HCM
Địa phương đi đầu là TP.HCM khi đưa vào sử dụng một số máy móc, thiết bị tập luyện sử dụng công nghệ đo và AI cơ bản với một số môn võ tại Trung tâm Huấn luyện thi đấu TDTT thành phố từ khoảng 2022-2023. Một số địa phương khác cũng tùy vào điều kiện thực tế, bắt đầu có những sự đầu tư, mua sắm các trang thiết bị tương tự…
Vào năm 2024, Cục TDTT Việt Nam đã có sự hợp tác ban đầu với Đại sứ quán Pháp và trường Đại học Nantes khi phía bạn sẵn cung cấp một số các giải pháp phần mềm phân tích dữ liệu VĐV đã, đang được áp dụng, triển khai hiệu quả ở nhiều môn thể thao tại nhiều nước ở châu Âu. Được biết, phần mềm này có tính năng vô cùng hữu ích liên quan đến công tác huấn luyện, quản lý, đào tạo VĐV, giúp tăng cường sự kết nối giữa HLV với VĐV…
Trong khoảng gần nửa năm gần đây, một số VĐV thuộc 4 đội tuyển taekwondo, boxing, bắn súng và bắn cung cũng bắt đầu được trải nghiệm công tác theo dõi, lấy dữ liệu trực tiếp qua các buổi tập với dự án tổng hợp phân tích bằng AI của công ty Dreamax, qua đó hỗ trợ ban huấn luyện các đội tuyển cải thiện chất lượng huấn luyện với những số liệu thực tế. Sau khi đánh giá bước đầu, dự án này sẽ tiếp tục được áp dụng với các đội tuyển thể thao khác.
Được biết, Trung tâm HLTTQG tại TPHCM cũng đã được đầu tư một số trang thiết bị khá hiện đại phục vụ cho nghiên cứu khoa học và chăm sóc sức khỏe VĐV, bước đầu đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác huấn luyện khoa học. Trong đó, máy phân tích Inbody 770 - loại máy hiện đại có thể giúp đánh giá thực trạng cấu trúc thành phần cơ thể là căn cứ quan trọng để các HLV, chuyên gia, bác sỹ có thể khuyến nghị điều chỉnh chế độ, chương trình tập luyện kịp thời, dinh dưỡng và chăm sóc y tế phù hợp với đặc điểm từng môn thể thao nhằm nâng cao hiệu quả huấn luyện, cải thiện và chăm sóc sức khỏe VĐV…
Mới đây, Đề án chuyển đổi số trong lĩnh vực TDTT đã được phê duyệt, trong đó bao gồm nhiều hạng mục liên quan tới thiết lập cơ sở dữ liệu lớn (big data) đối với lực lượng VĐV thành tích cao của chúng ta trong những năm tới. Đây có thể xem là một trong những điểm tựa quan trọng để hỗ trợ cho công tác huấn luyện, đào tạo VĐV đỉnh cao.
Chủ trương đã rõ, nhưng để KHCN trở nên thiết yếu, tạo ra động lực nâng tầm, nâng cao thành tích hơn nữa cho thể thao Việt Nam thì rất cần một kế hoạch dài hơi và bài bản. Tuy chậm chân, nhưng thể thao Việt Nam đã và đang nỗ lực để có thể “tăng tốc”, nâng cao hàm lượng KHHCN trong công tác huấn luyện, đào tạo VĐV thể thao thành tích cao, hướng tới vị thế mới trên trường quốc tế.
Nguồn Một Thế Giới: https://1thegioi.vn/khcn-chap-canh-cho-the-thao-bay-cao-242453.html












