Khi khoa học công nghệ và chuyển đổi số là trụ cột nâng cao sức khỏe Nhân dân
Sức khỏe là vốn quý của mỗi người và là nền tảng của một quốc gia thịnh vượng. Bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế, mà còn là trụ cột để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân một cách công bằng, hiệu quả, bền vững.
Khoa học công nghệ và chuyển đổi số là đòn bẩy cho y tế
Tinh thần ấy cũng được quán triệt trong Nghị quyết số 57-NQ/TW (22/12/2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, coi đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, cần triển khai quyết liệt, nhất quán, lâu dài. Đồng thời huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và Nhân dân cùng tham gia.
Nhìn lại thực tiễn, những năm qua y tế Việt Nam đã có bước tiến rõ rệt nhờ ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Nhiều nhiệm vụ then chốt từ quản lý hồ sơ bệnh án, kết nối thanh toán bảo hiểm y tế đến khám, chữa bệnh từ xa được thúc đẩy đồng bộ.
Tính đến thời điểm hiện tại, có khoảng 1.012/1.650 cơ sở hoàn thành việc triển khai EMR (chiếm hơn 61%), đánh dấu bước chuyển từ “giấy” sang “số” ngay trong hoạt động khám, chữa bệnh hằng ngày. Cùng với đó, lộ trình bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) tiến sát mục tiêu toàn dân, với mức ước đạt trên 95% dân số vào năm 2025. Đây là nền tảng để tổ chức chi trả theo kết quả, mở rộng phòng bệnh và sàng lọc sớm cho cộng đồng.
Đồng thời, Đề án “Khám, chữa bệnh từ xa” (2020 -2025) đã tạo hành lang pháp lý, công nghệ cho mạng lưới tư vấn, hội chẩn từ tuyến trên xuống tuyến dưới, giúp giảm chuyển tuyến không cần thiết và rút ngắn thời gian tiếp cận điều trị. Trên nền đó, Nghị quyết 72-NQ/TW (9/9/2025) về “một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân” xác định rõ khoa học công nghệ và chuyển đổi số là công cụ trọng yếu để chuyển mạnh từ “chữa bệnh” sang “phòng bệnh”; hiện đại hóa y tế dự phòng và y tế cơ sở; quản lý sức khỏe theo vòng đời qua sổ sức khỏe điện tử, bệnh án điện tử, đơn thuốc điện tử; xây dựng hệ thống cấp cứu ngoại viện; và thúc đẩy tự chủ dược, vaccine, thiết bị y tế. Nghị quyết yêu cầu hoàn thành các cơ sở dữ liệu y tế, bảo đảm tiêu chuẩn kết nối và bảo vệ dữ liệu; đồng thời khuyến khích ứng dụng công nghệ mới (trong đó có trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, IoT) để nâng chất lượng, minh bạch hóa và tối ưu chi phí chăm sóc sức khỏe.
Có thể khẳng định, khoa học công nghệ và chuyển đổi số chính là đòn bẩy mạnh mẽ cho y tế, giúp chúng ta nhanh chóng đến được mục tiêu mong muốn trong chăm sóc sức khỏe toàn dân. Công nghệ giúp mở rộng phạm vi tiếp cận: khám từ xa, hội chẩn hình ảnh, xét nghiệm kết nối và cấp cứu ngoại viện số hóa giúp tuyến cơ sở ở vùng sâu, vùng xa nhận hỗ trợ kịp thời. Từ đó người bệnh được điều phối đúng nơi, giảm chuyển tuyến và chi phí.
Cạnh đó, BHYT điện tử cho phép dùng dịch vụ ở nhiều cơ sở mà dữ liệu vẫn liền mạch, thủ tục gọn, chờ đợi ít hơn. Nhờ áp dụng công nghệ, chất lượng và an toàn y tế được nâng lên, bệnh án điện tử tập hợp đủ tiền sử, kết quả cận lâm sàng, cảnh báo tương tác thuốc; các hệ thống thông tin y tế HIS, RIS, PACS, LIS… được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả giúp giảm sai sót, tránh lặp chỉ định. Các ứng dụng công nghệ cũng giúp theo dõi chỉ số giúp quản trị dựa trên dữ liệu. Về chi phí, dữ liệu chuẩn sẽ mở đường cho chi trả theo kết quả (định suất, theo ca, theo chẩn đoán), chuyển trọng tâm từ “chi cho giường bệnh” sang “chi cho sức khỏe”, khuyến khích phòng bệnh, sàng lọc, quản lý bệnh mạn tại cơ sở. Một khía cạnh quan trọng, đó là công nghệ tạo nền tảng cho sự tự chủ trong hoạt động y tế bằng cách giúp hình thành hệ sinh thái R&D (Nghiên cứu và Phát triển) - tạo mạng lưới bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, trường đại học, cơ quan chính phủ và nhà đầu tư, cùng hợp tác và cạnh tranh để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm, dịch vụ và công nghệ mới.

Mọi quá trình chuyển đổi đều phải hướng đến một mục tiêu đặt người dân ở trung tâm. (Nguồn: An)
Lấy Nhân dân là trung tâm của mọi đổi mới
Tại cuộc họp đánh giá tình hình triển khai Đề án 06 của Chính phủ và Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong ngành Y tế diễn ra hồi tháng 7, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã nhấn mạnh: “Chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu, mà là cơ hội để hiện đại hóa ngành Y tế. Từng đơn vị, từng cán bộ phải vào cuộc nghiêm túc và hiệu quả”.
Thực tế, để khoa học công nghệ và chuyển đổi số thực sự trở thành trụ cột nâng cao sức khỏe Nhân dân, vẫn còn nhiều việc phải làm. Trước hết là chuẩn dữ liệu quốc gia về y tế: mã bệnh, danh mục kỹ thuật, gói dịch vụ, chuẩn kết nối; quy chế chia sẻ, bảo vệ dữ liệu... Yêu cầu 100% bệnh viện hoàn thành EMR cần đi kèm hỗ trợ kỹ thuật, lộ trình sát thực tế và cơ chế giám sát, đánh giá công khai, tránh tình trạng nhiều bệnh viện còn triển khai bệnh án điện tử “nửa vời”, thiếu liên thông hoặc chậm công bố tiến độ.
Cạnh đó, nhân lực số cho y tế là yếu tố cực kì quan trọng. Lực lượng kỹ sư công nghệ, chuyên gia an ninh mạng, nhà khoa học dữ liệu, kỹ sư AI phải được thu hút bằng cơ chế linh hoạt; song song, đào tạo lại cho đội ngũ y, dược, điều dưỡng về kỹ năng số, an toàn thông tin, sử dụng công cụ hỗ trợ ra quyết định. Theo các chuyên gia, quá trình số hóa còn cần đi song song với minh bạch và an ninh dữ liệu. Cần giám sát độc lập chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền riêng tư, phòng, chống lạm dụng, trục lợi trong khám, chữa bệnh và dược, thực phẩm; xử lý nghiêm các vi phạm để gìn giữ niềm tin.
Về tổ chức thực thi, thời gian qua, các chuyên gia đã đưa ra một số nhóm giải pháp thiết yếu. Quan trọng hàng đầu chính là hoàn thiện hành lang pháp lý, triển khai Nghị quyết 57 và 72 trong lĩnh vực y tế, ban hành bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn dữ liệu, bảo mật. Cần khung pháp lý thử nghiệm cho AI y tế, khám từ xa, thiết bị đeo theo dõi sức khỏe; quy trình thẩm định thuật toán hỗ trợ chẩn đoán, điều trị; quy chuẩn an toàn hệ thống EMR. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế mua sắm, đấu thầu số, đặt hàng dịch vụ dự phòng và quản lý bệnh mạn tính; chuẩn hóa hồ sơ mời thầu, tiêu chí kỹ thuật để tránh “đo ni đóng giày”.
Đồng thời, cần tăng tốc hạ tầng số y tế, ưu tiên băng rộng cho y tế cơ sở; trung tâm dữ liệu vùng, địa phương với khả năng dự phòng, khôi phục; nền tảng chia sẻ dữ liệu y tế quốc gia kết nối BHYT và các hệ thống quản lý dân cư; tích hợp chữ ký số để vận hành đơn thuốc điện tử triệt để, chống kê đơn trùng lặp.
Ngoài ra, việc huy động khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào quá trình số hóa hoạt động chăm sóc sức khỏe, vận dụng được nguồn lực lớn, sức sáng tạo của khối tư nhân trong quá trình “công nghệ hóa” việc khám, chữa bệnh là một yếu tố rất cần thiết. Những năm gần đây, các bệnh viện tư, trung tâm chẩn đoán, phòng xét nghiệm, mạng lưới nhà thuốc và doanh nghiệp công nghệ đã đầu tư mạnh cho hạ tầng kỹ thuật, giải pháp số và chuẩn quản trị hiện đại; nhiều cơ sở tư tham gia cung ứng dịch vụ trong phạm vi BHYT, góp phần giảm tải cho khu vực công, nâng chất lượng phục vụ và chuẩn hóa trải nghiệm người bệnh. Ở các đô thị lớn, sự tham gia của phòng khám và bệnh viện tư trong quản lý bệnh mạn tính (đái tháo đường, tăng huyết áp, COPD…) theo phác đồ thống nhất giúp giảm tình trạng “vượt tuyến” lên bệnh viện trung ương; trong khi các cơ sở tư về phục hồi chức năng, chăm sóc dài hạn, chăm sóc giảm nhẹ đang dần lấp vào “khoảng trống” dịch vụ mà hệ thống công khó đáp ứng đủ. Các doanh nghiệp công nghệ y tế phối hợp xây dựng nền tảng đặt lịch, tư vấn từ xa, tủ thuốc số, quản lý kho, đấu thầu trực tuyến, truy xuất nguồn gốc thuốc, thiết bị; qua đó tăng minh bạch chuỗi cung ứng, giảm chi phí vận hành và chống thất thoát…