Khi ngôn từ to hơn các siêu hạ tầng quốc gia

Dự án này phải được triển khai, vì đó là 'Thời cơ ngàn năm có một'; 'Phi lợi nhuận, chỉ vì đất nước'; 'Không cần vốn nhà nước'; 'Chần chừ có tội với lịch sử'.

Đây là văn phòng một công ty đóng vai trò chủ lực trong liên doanh đề xuất xây dựng dự án giao thông trọng điểm quốc gia.

Đây là văn phòng một công ty đóng vai trò chủ lực trong liên doanh đề xuất xây dựng dự án giao thông trọng điểm quốc gia.

Tưởng chừng đây là lời hiệu triệu từ các diễn giả tại các hội thảo chiến lược kinh tế quốc gia. Nhưng không phải vậy, đó là ngôn ngữ khu vực tư nhân - đang xin đầu tư vào các siêu dự án hạ tầng, với con số lên đến trăm tỷ USD. Và họ không chỉ xin làm - họ xin vai trò.

Tư nhân thời đại mới bây giờ không còn đơn thuần xin dự án như trước. Họ có mong muốn chính đáng có được vị trí trong lịch sử. Đây là điều đáng mừng cho dân tộc.

Một số doanh nghiệp đề xuất xây dựng hạ tầng trọng điểm quốc gia, có điểm chung không phải vốn lớn hay công nghệ cao. Bởi vì đợi đến lúc tất cả chín mùi để xin vai trò thì không biết đến bao giờ. Điều đáng quý là cách họ tự định vị bản thân, rằng họ không đến với Nhà nước như một nhà thầu hạ tầng, mà như một lực lượng thay đổi vận mệnh.

Thế thì, đó không còn là đề xuất đầu tư mà là một ngôn ngữ định nghĩa lại vai trò chính sách. Và đó là điều Nhà nước cần phải suy nghĩ nghiêm túc.

Bởi nếu ngôn ngữ có thể tạo dựng vai trò, thì năng lực thực tế trở thành thứ yếu. Một dự án trăm tỷ có thể đưa lên bàn Chính phủ và Nghị trường - không phải nhờ số liệu - mà nhờ những từ như “hiến dâng”, “cách mạng công nghiệp”, “sứ mệnh dân tộc”. Và Nhà nước, nếu không có khung phản ứng chính sách kịp thời, dễ bị đẩy vào thế “phản bác điều cao cả”. Nghĩa là, dù nghi ngờ, cũng không dễ từ chối.

Để hưởng ứng Nghị quyết 68, sắp tới có thể sẽ xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp dùng ngôn ngữ đạo lý (phi lợi nhuận, hiến dâng…), thì Nhà nước rất dễ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu đồng ý - rủi ro bị thao túng hệ thống chính danh và tài khóa. Nếu từ chối - bị gán là “cản trở yêu nước”, “không ủng hộ đột phá”.

Từ những đề xuất xin vai trò táo bạo của tư nhân, đã đến lúc cần nghĩ đến khung chính sách - vừa để lựa chọn đúng tư nhân, nhưng cũng đồng thời cứu họ khỏi vai diễn quá sức.

Vì lẽ đó, thế giới đến giờ có lẽ vẫn chưa tìm ra được một doanh nghiệp đồng thời là nhà tài chính tiềm lực vô song, nhà đầu tư, nhà thầu, nhà điều phối, nhà đạo đức và nhà tiên tri.

Tư nhân tự xưng làm “phi lợi nhuận”, nhưng không có khung giám sát minh bạch; Cam kết “100 tỷ USD vốn tự có”, nhưng trụ sở nằm trong hẻm nhỏ, không ai làm việc; Hứa “cách mạng công nghệ blockchain”, nhưng nền tảng kỹ thuật và nhân sự chưa kiểm chứng.

Trong hệ thống chính sách hiện đại, ngôn ngữ là công cụ điều phối kỳ vọng, thậm chí hào khí quốc gia tiến về phía trước. Nhưng nếu không tỉnh táo, nó trở thành công cụ thao túng hệ thống. Giống như trong tiền tệ - một đồng tiền kỹ thuật số không có kiểm toán, không có bảo chứng, chỉ có lời hứa - sớm muộn cũng sẽ sụp đổ. Điều khác là: ở đây, nó có thể kéo theo cả niềm tin thể chế.

Vai trò Nhà nước chẳng những chọn đúng dự án - mà còn phải không để lệch kỳ vọng. Với các đề xuất theo kiểu “Thời cơ ngàn năm có một”; Phi lợi nhuận, vì đất nước”; “Không cần vốn nhà nước”, Nhà nước không nhất thiết phản ứng bằng từ chối hay ủng hộ. Việc cấp bách hơn là thiết lập quy trình kiểm định ngôn ngữ và vai trò. Có 3 điều cần làm.

Thứ nhất, tách dự án khỏi “tham vọng biểu tượng”: tư nhân có thể đề xuất hạ tầng, nhưng không thể đề xuất vị thế quốc gia.

Thứ hai, xây dựng cơ chế kiểm tra tính chính danh biểu tượng: giống như kiểm toán tài chính, đã đến lúc cần có “kiểm toán lời hứa”.

Thứ ba, không để ngôn ngữ đạo lý che khuất trách nhiệm kỹ trị: “phi lợi nhuận” không có nghĩa được miễn trừ trách nhiệm giải trình.

Nếu không, Nhà nước sẽ bị dẫn dắt bởi ai biết nói hay nhất - chứ không phải ai có năng lực thật nhất. Sẽ đến lúc 100 tỷ USD không được chọn, nhưng 1.000 năm thì được.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ngôn ngữ chỉ là vòng ngoài, không phải thẻ thông hành. Chẳng hạn ở Nhật Bản, đường sắt Shinkansen được triển khai từ chiến lược quốc gia - rồi mới cho tư nhân từng bước tham gia. Không doanh nghiệp nào được quyền khẳng định vai trò biểu tượng thay Nhà nước. Ở Trung Quốc, mọi đề xuất hạ tầng đều qua hệ thống phân tầng quyền lực - không ai có thể vừa nói “hiến dâng” vừa đòi quyền điều phối.

Còn Singapore? Họ không “hào khí hóa” các đề xuất. Dù cam kết “miễn phí”, chính phủ vẫn buộc doanh nghiệp qua các bài stress-test ngân sách, khả năng vận hành và trách nhiệm dài hạn.

Việt Nam không thiếu tư nhân dấn thân. Nhưng nếu để ngôn ngữ biểu tượng lấn át các quy chuẩn kỹ trị, ta sẽ xây chính sách dựa trên cảm xúc - không phải sự thật.

Lời kết:

Khi một doanh nghiệp chỉ bằng vài dòng ngôn ngữ “vì dân tộc”, “phi lợi nhuận”, “thời cơ ngàn năm”, mà khiến cả một hệ thống chính sách phải lắng nghe nghiêm túc - đó không đơn thuần là hiệu quả truyền thông. Đó là tín hiệu cho thấy chính sách đang bị định hình bởi kỳ vọng biểu tượng hơn là tiêu chí vận hành.

Nếu xu hướng này tiếp diễn, rất có thể đến một ngày, các phản biện chính sách sẽ không còn dựa vào hồ sơ kỹ thuật hay năng lực tài chính - mà chỉ để đối thoại với cảm xúc của tư nhân.

Và lúc đó, ai nói hay - người đó thắng.

Để hưởng ứng Nghị quyết 68, sắp tới có thể sẽ xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp dùng ngôn ngữ đạo lý (phi lợi nhuận, hiến dâng…), thì Nhà nước rất dễ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu đồng ý - rủi ro bị thao túng hệ thống chính danh và tài khóa. Nếu từ chối - bị gán là “cản trở yêu nước”, “không ủng hộ đột phá”.

GS.TS TRẦN NGỌC THƠ Đại học Kinh tế TPHCM

Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/khi-ngon-tu-to-hon-cac-sieu-ha-tang-quoc-gia-post123693.html