'Khi người dân hài lòng, chúng ta sẽ có một đất nước hạnh phúc'
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV lần đầu tiên đề cập cụ thể đến chỉ số hạnh phúc cho thấy tư duy phát triển của Việt Nam đã chuyển từ tăng trưởng kinh tế thuần túy sang lấy con người và hạnh phúc làm trung tâm.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi nhanh chóng của xã hội đương đại, câu hỏi về "phát triển vì ai, phát triển để làm gì" đang được đặt ra với tính cấp thiết ngày càng cao tại nhiều quốc gia.
Việt Nam, sau gần 40 năm đổi mới với những thành tựu ấn tượng về kinh tế, cũng đang bước vào giai đoạn tái định nghĩa mục tiêu phát triển. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, trong đó khái niệm "hạnh phúc" được nâng lên vị trí trung tâm, đánh dấu một chuyển dịch quan trọng trong tư duy phát triển quốc gia.
Trong nhiều thập kỷ qua, mô hình phát triển của Việt Nam cũng như phần lớn các nước đang phát triển tập trung chủ yếu vào tăng trưởng GDP, công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là con đường tất yếu và đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận: Từ một nước nghèo đói với GDP bình quân đầu người chỉ vài trăm USD, Việt Nam đã vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình cao với GDP bình quân đầu người đạt gần 5.000 USD vào năm 2025.

Người dân cùng các chiến sĩ vui ca sau lễ diễu binh, diễu hành mừng 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ảnh: PLO
Tuy nhiên, khi kinh tế phát triển đến một ngưỡng nhất định, xã hội bắt đầu đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa sâu xa hơn của điều này. Người dân có thực sự hạnh phúc hơn khi thu nhập tăng? Liệu tăng trưởng kinh tế có đồng nghĩa với nâng cao chất lượng cuộc sống? Và quan trọng hơn, đâu là thước đo thực sự cho sự tiến bộ của một quốc gia?
Chính trong bối cảnh ấy, việc dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng XIV đưa "hạnh phúc" vào vị trí cuối cùng và cũng là cao nhất trong chuỗi mục tiêu phát triển "hòa bình - độc lập - dân chủ - giàu mạnh - phồn vinh - văn minh - hạnh phúc" không phải là ngẫu nhiên mà phản ánh một sự trưởng thành trong nhận thức về phát triển bền vững.
Tín hiệu chuyển đổi từ con số
Một trong những điểm đáng chú ý nhất trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là lần đầu tiên, chỉ số hạnh phúc quốc gia được đề cập một cách cụ thể với những con số rõ ràng. Việt Nam đã cải thiện 33 bậc trong báo cáo Hạnh phúc thế giới, từ vị trí khoảng 79 lên vị trí 46/143 quốc gia được khảo sát. Đây là tốc độ cải thiện đáng lưu ý, khoảng 7 bậc mỗi năm và nhanh nhất trong khu vực ASEAN.
Việt Nam có "hiệu suất chuyển đổi" từ GDP sang hạnh phúc cao hơn nhiều so với các nước có thu nhập tương đương trong khu vực. Nói cách khác, với một mức thu nhập không cao (5.000 USD/người), người Việt Nam vẫn cảm thấy hạnh phúc hơn so với nhiều nước có thu nhập cao hơn.
Đâu là nguồn gốc của "nghịch lý" này? Câu trả lời có thể tìm thấy trong những đặc điểm văn hóa - xã hội đặc thù của Việt Nam. Đó là vốn xã hội cao với truyền thống đoàn kết cộng đồng, hệ thống gia đình mở rộng vẫn còn khá bền vững và đặc biệt là vai trò kiến tạo của Nhà nước trong việc đảm bảo an sinh xã hội.

Người dân thưởng thức chương trình pháo hoa tầm cao đêm 26-4-2025. Ảnh: THUẬN VĂN
Từ tăng trưởng đến phát triển toàn diện
Sự chuyển dịch quan trọng nhất mà Văn kiện Đại hội XIV thể hiện không phải chỉ là thêm một chỉ số mới vào danh sách đánh giá, mà là sự thay đổi căn bản trong cách nhìn nhận về phát triển. Từ "tăng trưởng kinh tế" sang "phát triển con người", từ "vật chất" sang "vật chất + tinh thần + ý nghĩa", từ "GDP" sang "hạnh phúc".
Điều này không có nghĩa là phủ nhận vai trò của tăng trưởng kinh tế, bởi tăng trưởng vẫn là nền tảng vật chất không thể thiếu mà là khẳng định rằng kinh tế là phương tiện, còn mục đích cuối cùng là con người và hạnh phúc của con người. Đây chính là tinh thần của kinh tế nhân văn mà nhiều học giả đương đại như Amartya Sen hay Martha Nussbaum đã đề xuất.
Khi văn kiện khẳng định "lấy con người làm trung tâm", "bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản", hay "không để ai bị bỏ lại phía sau", đó không phải là những câu khẩu hiệu mà là những nguyên tắc định hướng cho toàn bộ hệ thống chính sách. Từ y tế miễn viện phí toàn dân đến giáo dục phổ thông miễn phí, từ an sinh xã hội đa tầng đến việc làm có thu nhập ổn định - tất cả đều hướng đến một mục tiêu nâng cao năng lực sống và hạnh phúc của mỗi người dân.
Tuy nhiên, việc đặt "hạnh phúc" làm mục tiêu phát triển cũng đặt ra không ít thách thức. Thứ nhất, làm sao có thể đo lường chính xác "hạnh phúc", bởi chỉ số hạnh phúc thế giới hay HDI không phải là thước đo hoàn hảo.
Thứ hai là khoảng cách giữa chính sách và thực thi. Để đưa chính sách đi vào thực tiễn cần có lộ trình cụ thể, nguồn lực đầy đủ và quan trọng hơn là cơ chế trách nhiệm rõ ràng. Ai sẽ chịu trách nhiệm nếu chỉ số hạnh phúc không cải thiện? Làm sao đánh giá cán bộ dựa trên mức độ hạnh phúc của người dân?
Thứ ba là những đánh đổi không thể tránh khỏi. Tăng trưởng kinh tế nhanh có thể gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe và do đó giảm hạnh phúc. Phát triển đô thị có thể làm xáo trộn cộng đồng truyền thống, làm suy yếu vốn xã hội. Vậy làm sao cân bằng giữa các mục tiêu này?

PGS-TS Nguyễn Đức Lộc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đời sống Xã hội. Ảnh: NVCC
Hạnh phúc không phải đích đến mà là hành trình
Cuối cùng, cần nhận thức rằng "hạnh phúc" không phải là một đích đến cố định mà là một hành trình liên tục. Mỗi giai đoạn phát triển, mỗi thế hệ sẽ có định nghĩa khác nhau về hạnh phúc. Người Việt Nam những năm 1990 có thể thấy hạnh phúc khi có đủ ăn no, mặc ấm. Nhưng hôm nay, họ mong muốn được sống trong môi trường sạch, có công việc ý nghĩa, có thời gian cho gia đình. Và tương lai, người Việt Nam sẽ có những khát vọng cao hơn nữa.
Do đó, mô hình phát triển hướng đến hạnh phúc không phải là một công thức cứng nhắc mà phải linh hoạt, thích nghi và không ngừng đổi mới. Điều quan trọng là phải luôn đặt câu hỏi "phát triển này có làm cho người dân hạnh phúc hơn không?" trước mỗi quyết định chính sách.
Việt Nam đang bước vào "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" như Văn kiện Đại hội XIV đã khẳng định. Và có lẽ, thước đo thành công của kỷ nguyên này không chỉ nằm ở GDP hay các chỉ số kinh tế, mà còn - và có lẽ quan trọng hơn là ở nụ cười trên môi và ánh mắt tự tin của mỗi người Việt Nam. Đó mới là hạnh phúc thực sự mà một quốc gia cần hướng tới.
Xây dựng gia đình, trường học, môi trường làm việc hạnh phúc
Góp ý vào dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa đề xuất nghiên cứu đưa vào dự thảo Báo cáo chính trị nội dung về "chỉ số hạnh phúc". Bởi mục tiêu mà Đảng luôn hướng tới chính là độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
"Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam trong thời gian qua đã đạt nhiều thành tích nổi bật. Nếu tính trong giai đoạn 2020 - 2025, chúng ta đã tăng 37 bậc và tăng mạnh trong những năm gần đây về chỉ số hạnh phúc. So với các nước trong khu vực, Việt Nam hiện xếp thứ 2 chỉ sau Singapore về chỉ số hạnh phúc" - bà Hoa nói và cho biết chúng ta đang có đà phát triển rất đáng phấn khởi.
Nói thêm, bà Hoa bày tỏ ấn tượng khi đánh giá chỉ số hạnh phúc thì không phải dựa vào những tiêu chí về thu nhập. “Hạnh phúc của con người đôi khi đến từ những hành vi, việc làm rất nhỏ hay những điều đạt được trong cuộc sống và họ thấy hài lòng, hạnh phúc” – bà nói và cho rằng chỉ số hạnh phúc có thể đo đếm được ở những môi trường khác nhau, từ mỗi cá nhân, tập thể đến mỗi cộng đồng…
Đại biểu cho biết dự thảo Báo cáo chính trị đã đề cập đến chỉ số hạnh phúc và đặt ra quan điểm chỉ đạo nhiệm kỳ tới là “thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao đời sống và hạnh phúc của Nhân dân". Trong mục tiêu phát triển cũng xác định "vì một Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc".
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thị Mai Hoa. Ảnh: QH
Tuy nhiên, bà Hoa đánh giá các mục tiêu, chỉ tiêu, các nhóm nhiệm vụ, giải pháp còn chung chung, chưa rõ tiêu chí xác định mức độ hạnh phúc, chỉ số hạnh phúc của con người, cộng đồng và gia đình.
Từ thực tiễn đó, bà Nguyễn Thị Mai Hoa đề nghị Tổ biên tập Văn kiện quan tâm, xác định bổ sung chỉ tiêu, chỉ số về hạnh phúc trong văn kiện. Đồng thời, làm rõ thêm nhiệm vụ và giải pháp xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người dân.
"Cần tập trung đưa ra chỉ số cụ thể mức độ hài lòng, hài lòng về chính mình, gia đình mình, từ cộng đồng làng, xã, thôn, xóm, cơ quan… Khi các chỉ số cho thấy người dân hài lòng trong các mối quan hệ xung quanh mình, khi đó chúng ta sẽ có một đất nước hạnh phúc" - đại biểu Hoa nói.
Ngoài cá nhân mỗi người hạnh phúc, theo bà Hoa, phải chú trọng xây dựng gia đình hạnh phúc. “Đây là câu chuyện đau đáu trong nhiều nhiệm kỳ vừa qua” – bà nói và nhìn nhận thu nhập trong mỗi gia đình có thể tăng lên, phương tiện phục vụ cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ… nhưng mối quan hệ giữa con người với con người trong từng gia đình, các mối quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng, làng xã không hài lòng thì chưa chắc đã hạnh phúc.
Kế đó, trường học hạnh phúc – môi trường giáo dục, cần chú ý câu chuyện bạo lực học đường, chương trình học còn nặng, văn hóa ứng xử giữa thầy với trò, phụ huynh với giáo viên, trò với trò… “Chúng ta cần có sự quan tâm, hành động như thế nào để xây dựng môi trường an toàn, hạnh phúc” – bà Hoa nói.
Một vấn đề khác theo bà Hoa, hạnh phúc trong môi trường làm việc cũng cần được đặt ra, từng cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức… nếu xác định được chỉ tiêu môi trường làm việc hạnh phúc thì sẽ là động lực lớn để mọi người đoàn kết hơn, yêu thương nhau hơn và cống hiến của mỗi người sẽ nhiều hơn.










