Khoa học và công nghệ, động lực cho chuyển dịch năng lượng xanh
Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng trở thành xu hướng toàn cầu, Việt Nam đang đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm giảm phát thải, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và tiến tới phát triển xanh.

Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng.
Chương trình KC.05/21-30 do Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai giữ vai trò quan trọng trong việc làm chủ công nghệ, thúc đẩy năng lượng sạch và hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng bền vững của đất nước.
Trụ cột của quá trình giảm phát thải và phát triển năng lượng bền vững
Hơn một thập niên qua, ngành năng lượng Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng: công suất phát điện tăng mạnh, năng lượng tái tạo bứt phá, hiệu quả sử dụng năng lượng được cải thiện và độ tin cậy của hệ thống điện quốc gia không ngừng nâng cao.
Tuy vậy, những hạn chế cố hữu như phụ thuộc lớn vào nhiên liệu hóa thạch, tổn thất truyền tải-phân phối cao, công nghệ khai thác và sử dụng năng lượng tái tạo chưa đồng đều vẫn là rào cản cho mục tiêu giảm phát thải và phát triển bền vững.
Trước yêu cầu đó, Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định phát triển năng lượng “nhanh và bền vững, đi trước một bước”, gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả. Khoa hoc và công nghệ vì thế được coi là mũi nhọn chiến lược, góp phần đưa nền kinh tế từ phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch sang mô hình năng lượng sạch, thông minh và bền vững.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 (Quyết định 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022) cũng đã đưa “công nghệ năng lượng” vào nhóm 10 định hướng nghiên cứu trọng tâm của quốc gia, tập trung vào năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghệ tích trữ năng lượng tiên tiến và pin nhiên liệu.

Tổ hợp năng lượng tái tạo Trung Nam. (Ảnh: Anh Đức)
Thúc đẩy đổi mới công nghệ và làm chủ năng lượng sạch
Trên nền tảng đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt Chương trình KC.05/21-30 tại Quyết định 1217/QĐ-BKHCN ngày 1/7/2022. Chương trình hướng tới ứng dụng và làm chủ các công nghệ tiên tiến trong khai thác, sản xuất và sử dụng năng lượng, nâng cao chất lượng, độ an toàn, độ tin cậy và hiệu quả trong toàn chuỗi giá trị, từ thăm dò, khai thác đến tiêu dùng.
Các hướng nghiên cứu trọng tâm của chương trình gồm: Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong thăm dò, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu khí, khí tự nhiên) nhằm giảm phát thải và tăng hiệu suất; Phát triển công nghệ khai thác và sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, sinh khối, hydro.
Đồng thời, nghiên cứu công nghệ lưu trữ năng lượng và lưới điện thông minh, giúp tăng độ ổn định, giảm tổn thất và thúc đẩy điện hóa nền kinh tế; ứng dụng chuyển đổi số và thiết bị giám sát thông minh trong sản xuất, phân phối và tiêu thụ năng lượng; nghiên cứu, thiết kế và vận hành an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, cùng các ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế và môi trường.
Về mục tiêu định lượng, chương trình đặt ra yêu cầu cụ thể: ít nhất 50% kết quả nghiên cứu được ứng dụng thực tiễn, 20% có khả năng thương mại hóa; 70% công nghệ, thiết bị, sản phẩm đạt trình độ khu vực và quốc tế; 50% nhiệm vụ có doanh nghiệp tham gia, gắn nghiên cứu với nhu cầu thị trường; 50% nhiệm vụ đóng góp đào tạo sau đại học, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo các chuyên gia, để chương trình KC.05/21-30 phát huy tối đa hiệu quả, cần tiếp tục thúc đẩy liên kết “4 nhà” (Nhà nước-Nhà khoa học-Nhà trường-Nhà doanh nghiệp), đồng thời tập trung làm chủ các công nghệ then chốt như năng lượng tái tạo, lưu trữ năng lượng, lưới điện thông minh và công nghệ số hóa năng lượng.
Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng các mô hình năng lượng xanh phù hợp điều kiện khí hậu-kinh tế-kỹ thuật tại từng địa phương để nhân rộng; hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu; và đẩy mạnh đào tạo, truyền thông về chuyển dịch năng lượng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng.
Giai đoạn 2021-2030 được xem là thập kỷ bản lề để Việt Nam nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, tiến hành chuyển dịch năng lượng một cách toàn diện. Với việc triển khai đồng bộ chương trình KC.05/21-30, Việt Nam đang khẳng định quyết tâm làm chủ công nghệ năng lượng mới, chủ động nguồn năng lượng sạch và hướng tới mục tiêu phát triển xanh, tự chủ và bền vững.












