Khoa học và công nghệ phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại vùng đồng bào DTTS và miền núi
Chương trình phối hợp giữa Ủy ban Dân tộc và Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) trong hoạt động nghiên cứu khoa học thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Các hoạt động nghiên cứu khoa học đã phục vụ đắc lực trong xây dựng, triển khai thực hiện chính sách dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Xã Tân Hưng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng là địa phương được khảo sát và lựa chọn xây dựng thí điểm mô hình Làng nông nghiệp thuận thiên thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu: “Phát triển mô hình làng nông nghiệp thuận thiên thích ứng với BĐKH vùng đồng bào các DTTS và miền núi” do Học viện Nông nghiệp Việt Nam chủ trì thực hiện, Ủy ban Dân tộc là cơ quan quản lý.
Tân Hưng có vị trí gần cửa biển Trần Đề, chịu ảnh hưởng nặng bởi hạn hán và xâm nhập mặn đặc biệt trong mùa khô. Đây cũng là xã có tỉ lệ cao dân số là đồng bào Khmer, với sinh kế chủ yếu dựa vào trồng lúa và chăn nuôi bò, heo. Trước tình trạng hạn mặn, các cấp chính quyền địa phương kêu gọi chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và áp dụng các giải pháp, kỹ thuật mới trong nông nghiệp nhằm từng bước ứng phó với BĐKH.
Xuất phát từ thực trạng và nhu cầu của địa phương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam phối hợp cùng Ban Dân tộc tỉnh Sóc Trăng và Đại học Cần Thơ điều tra khảo sát và thiết kế mô hình Làng Nông nghiệp thuận thiên thích ứng với BĐKH (gọi tắt là mô hình CSV) với trọng tâm đặt tại ấp KoKo và Tân Quy B thuộc xã Tân Hưng. Mô hình CSV kết hợp 8 giải pháp nông nghiệp nông minh thích ứng với BĐKH (CSA) vào trong 03 hoạt động chính là chuyển giao kỹ thuật trồng nấm bào ngư xám tận dụng nguồn lực địa phương, chăn nuôi bò thích ứng và chuyển đổi từ lúa sang cây trồng cạn trong vụ ba.
Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, sau khi triển khai thực hiện, mô hình CSV đã được hình thành. Ở nhóm chăn nuôi, các hộ đồng bào dân tộc Khmer đã được tập huấn về kĩ thuật chăn nuôi bò thịt, thực hành ủ rơm rạ làm thức ăn vỗ béo cho bò thịt. Chất thải một phần được tận dụng để làm nguyên liệu cho hầm biogas, phần còn lại được bán đến các cơ sở nuôi trùn quế tại địa phương. Ở trại trùn quế, trùn thành phẩm làm thức ăn cho chăn nuôi gà đen, đệm trùn được thu gom làm phân hữu cơ vi sinh trong sản xuất lúa và rau, qua đó khép kín vòng tuần hoàn ngay tại địa phương.
Ở hoạt động trồng nấm, cũng đã hỗ trợ kinh phí tập huấn và lựa chọn 03 hộ làm điểm trình diễn. Nấm thành phẩm đã được tiêu thụ hết tại địa phương ngay sau những vụ trồng đầu tiên. Sản phẩm cũng có nhu cầu lớn ở địa phương vì ở đây có đông người ăn chay. Trồng nấm tương đối phù hợp với gia đình ít lao động, tuổi cao góp phần tạo việc làm tại chỗ.
Với nỗ lực chuyển đổi cây trồng cạn, đề tài cũng giới thiệu các kỹ thuật trồng các cây trồng cạn tiềm năng thay thế cho vụ ba và phù hợp với đặc điểm canh tác của đồng bào Khmer. Một số cây tiềm năng được xác định như củ dền, cây sen và dưa hấu. Người dân cũng được tập huấn kết nối với thị trường và học hỏi từ các mô hình kinh doanh thuận thiên.
Trong tháng 4/2024 đoàn kiểm tra của UBDT đã đến thăm, làm việc trực tiếp tại các hộ trình diễn mô hình, làm việc với chính quyền địa phương và nhóm thực hiện đề tài ghi nhận những kết quả tích cực bước đầu từ mô hình. Đoàn cũng trao đổi với nhóm thực hiện đề tài, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn để tiếp tục các hoạt động tiếp, hướng đến nghiệm thu chính thức.
Tại tỉnh Tuyên Quang, trong giai đoạn 2021-2023, đã triển khai thực hiện trên 80 đề tài, dự án KH&CN, gồm 74 đề tài, dự án cấp tỉnh; 11 dự án thuộc Chương trình nông thôn miền núi Trung ương quản lý; 03 đề tài, dự án cấp Quốc gia; 01 dự án thuộc Chương trình Phát triển tài sản trí tuệ. Các đề tài, dự án tập trung vào việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và khai thác hiệu quả các tiềm năng lợi thế của tỉnh; phục vụ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng, giá trị gia tăng cao gắn với xây dựng nông thôn mới; nghiên cứu khoa học về lĩnh vực công tác dân tộc; nghiên cứu xây dựng các mô hình phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào DTTS và miền núi làm cơ sở tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo, triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp thuộc lĩnh vực công tác dân tộc phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Một số đề tài tiêu biểu tập trung nghiên cứu về tri thức dân gian của một số DTTS trên địa bàn tỉnh như Tày, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu...nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS gắn với phát triển du lịch bền vững tỉnh, như: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Pà Thẻn gắn với phát triển du lịch tại xã Linh Phú, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang”; “Nghiên cứu khai thác tri thức địa phương của một số DTTS gắn với bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể phục vụ phát triển du lịch bền vững tỉnh Tuyên Quang” ...; “Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình chăn nuôi hàng hóa giống gà đen của người dân tộc Mông (nuôi sinh sản và thương phẩm) gắn với chế biến phát triển thành sản phẩm OCOP tại huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang”...
Tại tỉnh Hòa Bình, Sở KH&CN tăng cường thông tin về các kết quả nghiên cứu KH&CN mới có liên quan đến lĩnh vực công tác dân tộc, các mô hình kinh tế có thể áp dụng trên địa bàn vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn để Ban Dân tộc chỉ đạo chỉ đạo công tác dân tộc các huyện, thành phố hướng dẫn các xã lồng ghép các nguồn vốn chính sách dân tộc vào ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phát triển sản xuất ở vùng đồng bào DTTS.
Trong giai đoạn 2021-2023, tỉnh triển khai thực hiện một số đề tài, dự án KH&CN, nổi bật là năm 2023 triển khai đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Hòa Bình” với các mục tiêu cụ thể là: làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và bài học kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin ở vùng DTTS; đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Hòa Bình; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh; đề xuất giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào DTTS phát triển phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
Còn tại tỉnh Gia Lai, kết quả của chương trình phối hợp giữa Sở KH&CN và Ban Dân tộc được thể hiện rất rõ nét thông qua việc ứng dụng KH&CN để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống đối với đồng bào DTTS là kết quả của các nhiệm vụ KH&CN cấp Quốc gia thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn miền núi, vùng DTTS giai đoạn 2016-2025 và các nhiệm vụ khoa học cấp tỉnh. Đó là triển khai thực hiện 14 dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng DTTS giai đoạn 2016-2025, trong đó có 04 dự án do Trung ương quản lý đã được nghiệm thu (ví dụ: ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng vùng trồng chuyên canh cây có múi theo hướng VietGAP tại huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai; Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cây cà phê và hồ tiêu trong vùng đồng bào DTTS, tỉnh Gia Lai...).
Đồng thời, 03 dự án ủy quyền địa phương quản lý đã được UBND tỉnh công nhận kết quả (Ứng dụng khoa học và công nghệ xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại xã đặc biệt khó khăn Ayun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai; Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN phát triển cà phê, hồ tiêu và bơ tại huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai; Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất một số loại cây nông nghiệp tại huyện Đak Pơ, tỉnh Gia Lai).
Cùng với đó, triển khai một số nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh về lĩnh vực xã hội và nhân văn mang tính ứng dụng cao đối với công tác bảo tồn giá trị văn hóa DTTS và góp phần phát triển du lịch, nâng cao sinh kế và đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS như: “Thực trạng và giải pháp xây dựng lực lượng nòng cốt tuyên truyền miệng ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Gia Lai”, “Sưu tầm, nghiên cứu và phát triển nghệ thuật múa dân gian của đồng bào dân tộc Ba Na và Jrai tỉnh Gia Lai gắn với phát triển du lịch”, “Sưu tầm và biên dịch các bài văn khấn trong lễ thức truyền thống của dân tộc Ba Na, Jrai trên địa bàn tỉnh Gia Lai”...
Bên cạnh tỉnh đã ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học làm nguồn tư liệu để triển khai các nội dung có liên quan đến Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030...
Tại tỉnh Kiên Giang, để phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng đồng bào DTTS, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã được chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp giúp giảm chi phí đầu tư, góp phần tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong số 254 đề tài, dự án đã và đang triển khai tại tỉnh, có khoảng 4% các đề tài, dự án đươc triển khai trực tiếp cho vùng đồng bào DTTS trong tỉnh, các đề tài, dự án còn lại cũng có một phần đóng không nhỏ nhằm nâng cao hoạt động sản xuất, tăng hiệu quả, chất lượng sản phẩm cho người đồng bào DTTS.
Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt là các mô hình ứng dụng KH&CN trong thực tiễn đã giúp đồng bào DTTS nâng cao kỹ thuật, trình độ sản xuất, tăng hiệu quả, cải thiện đời sống. Các đề tài, dự án chủ yếu triển khai trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học xã hội. Lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu tập trung hoàn thiện các quy trình kỹ thuật sản xuất lúa giống và lúa chất lượng cao; các mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả được chuyển giao cho người dân vùng đồng bào DTTS. Lĩnh vực xã hội tập trung nghiên cứu, có giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa đồng bào DTTS; có giải pháp phát duy vai trò Người có uy tín trong cộng đồng đồng bào DTTS.
Ngoài ra, Ban Dân tộc và Sở KH&CN các địa phương khác cũng đã chủ động phối hợp thực hiện tốt trong công tác tham mưu đề xuất và tổ chức thực hiện các đề tài, nhiệm vụ KH&CN liên quan đến xây dựng, thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn như: Bắc Giang, Quảng Ninh, Phú Thọ, Khánh Hòa, Cần Thơ, Bình Phước, Kon Tum, Phú Yên...
Ban Dân tộc và Sở KH&CN của các địa phương cũng đã phối hợp chặt chẽ, tham mưu hiệu quả cho UBND cấp tỉnh trong xây dựng, ban hành và thực hiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ ứng dụng KH&CN, thực hiện lồng ghép trong triển khai các chính sách hỗ trợ, xây dựng mô hình sản xuất mới; tổ chức nghiên cứu phát hiện và lựa chọn các mô hình sản xuất có hiệu quả để tổ chức cộng đồng và người dân được tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm... tạo ra hiệu ứng lan tỏa rất tích cực, từ đó tăng tính ứng dụng trong thực tiễn của các nghiên cứu KH&CN trong lính vực công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc.