Khoảng 25% thanh thiếu niên có thể mang vi khuẩn não mô cầu mà không có triệu chứng
Theo Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, 9 tháng đầu năm nay, số ca nhiễm não mô cầu tại miền Bắc tăng 45% và khu vực phía Nam tăng tới 83% so với cả năm 2024…

PGS.TS Phạm Quang Thái phát biểu tại hội thảo
Trước nguy cơ gia tăng các ca bệnh não mô cầu xâm lấn tại nước ta, Hội Y học Dự phòng Việt Nam vừa tổ chức hội thảo khoa học nhằm cập nhật tình hình dịch tễ và thúc đẩy chiến lược dự phòng chủ động với sự đồng hành của GSK Việt Nam.
Thông tin tại hội thảo cho thấy, bệnh não mô cầu xâm lấn tuy không phổ biến nhưng rất nghiêm trọng, có tỷ lệ tử vong lên đến khoảng 50% nếu không điều trị kịp thời. Ngay cả khi được điều trị kịp thời, khoảng 20% số người sống sót sau khi mắc bệnh phải đối mặt với các di chứng nghiêm trọng lâu dài, có thể là tàn tật vĩnh viễn.
PGS.TS Phạm Quang Thái, Phó trưởng Khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cho biết, tính từ đầu năm 2025 đến 15-9, cả nước đã ghi nhận 38 ca nhiễm não mô cầu, trong đó miền Bắc ghi nhận số mắc tăng 45% và khu vực phía Nam ghi nhận tăng 83% so với cả năm 2024. Bệnh thường gặp vào mùa đông – xuân, ở các khu vực tập trung đông người.

PGS.TS Trần Đắc Phu phát biểu
PGS.TS. Cao Hữu Nghĩa, Trưởng Bộ môn Khoa học Y sinh – Viện Pasteur TP. Hồ Chí Minh cho biết, trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt trẻ dưới 6 tháng tuổi và thanh thiếu niên từ 15 đến 24 tuổi là hai nhóm có nguy cơ mắc bệnh cao nhất.
Trong đó, thanh thiếu niên có nguy cơ mắc bệnh não mô cầu cao với tỷ lệ mang trùng từ 25% đến 32% nhưng thông thường lại không triệu chứng. Vì thế, đây là nhóm có nguy cơ kép “mang vi khuẩn, lây truyền và nhiễm bệnh”…
PGS.TS Trần Đắc Phu, Phó chủ tịch Hội Y học Dự phòng Việt Nam cho biết, để phòng ngừa được bệnh do não mô cầu toàn diện hơn, cần phải chủng ngừa đầy đủ các nhóm huyết thanh thường gây bệnh não mô cầu. Bác sĩ Phạm Thị Mỹ Liên, Chủ tịch GSK Việt Nam cũng chung quan điểm khi nhấn mạnh, dự phòng sẽ giúp chúng ta đi trước bệnh tật, do đó đòi hỏi phải luôn mở rộng độ bao phủ và tăng cường khả năng tiếp cận chủng ngừa.