Khơi dòng khoa học công nghệ

Trước những biến số ngày càng tăng, khó lường, ngành tôm cần thay đổi mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là việc ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) cần được phổ cập đến từng hộ nuôi để nâng cao tỷ lệ thành công, giảm giá thành, giúp tăng tính cạnh tranh, nâng cao vị thế ngành tôm trên thị trường thế giới.

Dấu ấn đầu tiên của KHCN phải kể đến là công nghệ sản xuất tôm giống. Từ nguồn bố mẹ có khả năng kháng bệnh đến nguồn bố mẹ tăng trưởng nhanh, sạch bệnh mang thương hiệu uy tín trên thế giới như: Hawaii, SIS hay của Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam, Tập đoàn Thủy sản Việt Úc… đều đã có mặt tại các trung tâm sản xuất giống lớn trên cả nước, mỗi năm cung ứng cho các vùng nuôi hàng chục tỷ tôm post có chất lượng, với 2 đối tượng chính là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Sự có mặt của nguồn tôm giống thế hệ mới này đã làm thay đổi tư duy, phương thức nuôi, góp phần đưa sản lượng tôm nuôi cả nước vượt 1 triệu tấn từ năm 2022 đến nay.

Mô hình cùng trang thiết bị nuôi tôm mới được doanh nghiệp giới thiệu tại Hội chợ triển lãm công nghệ ngành tôm năm 2024, tổ chức tại tỉnh Cà Mau vào cuối tháng 3/2024. Ảnh: TÍCH CHU

Các mô hình nuôi, phương thức nuôi cũng dần thay đổi khi doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào đa phần đều kèm theo mô hình nuôi của riêng mình. Có thể kể đến, như: mô hình TLSS, TLSS 543 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng Long; mô hình “3 tốt” của Công ty Uni Pressiden; mô hình CPF - Combine Model của Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam; mô hình Gro-Farm của Công ty Grobest Việt Nam; mô hình nuôi tôm tuần hoàn nước của Công ty Growmax… Các mô hình trên đều có tỷ lệ thành công rất cao, từ 70% đến hơn 90% và năng suất bình quân từ vài chục đến hơn 100 tấn/ha ao nuôi/năm.

Mô hình nuôi thay đổi kéo theo hàng loạt tiến bộ KHCN được ứng dụng vào nghề nuôi tôm, như: hệ thống quạt và ôxy đáy, gần đây nhất còn có hệ thống tại ôxy Nanobubel; máy cho ăn tự động; công nghệ xử lý nước nhanh; công nghệ xử lý nước thải và chất thải thông qua hầm ủ biogas; các thiết bị quan trắc tự động các chỉ tiêu môi trường ao nuôi kết nối qua mạng wifi… Trên lĩnh vực dinh dưỡng cho tôm nuôi cũng được các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu, ứng dụng KHCN để sản phẩm ngày một hiệu quả hơn, như: thức ăn chức năng cho giai đoạn dèo tôm; thức ăn có phối trộn enzime… cùng hàng loạt các khoáng chất cần thiết cho tôm nuôi trong những điều kiện khó khăn, như: nuôi độ mặn thấp, nuôi mật độ cao… Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ vi sinh vào xử lý môi trường ao nuôi đã mở ra kỷ nguyên mới cho ngành tôm theo phương châm: “Dùng thiên nhiên để cải thiện thiên nhiên”, giúp môi trường ít bị ô nhiễm hơn, tôm nuôi đạt chất lượng ngày một cao hơn.

Nuôi tôm bằng công nghệ vi sinh và quản lý tôm nuôi bằng công nghệ thiết bị thông minh của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú. Ảnh: TÍCH CHU

Nuôi tôm bằng công nghệ vi sinh và quản lý tôm nuôi bằng công nghệ thiết bị thông minh của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú. Ảnh: TÍCH CHU

Như vậy, về cơ bản có thể thấy, hiện chúng ta vẫn có khá nhiều mô hình nuôi tôm ứng dụng tiến bộ KHCN đạt tỷ lệ thành công cao và có giá thành hạ, như: các mô hình nuôi thâm canh, siêu thâm canh bằng ao lót bạt do các doanh nghiệp chuyển giao, là mô hình ao đáy lưới, bạt bờ đã và đang được các trang trại, doanh nghiệp, hộ nuôi ứng dụng. Đến thời điểm này, có thể nói, chúng ta không thiếu mô hình nuôi hiệu quả, nhưng vấn đề là người nuôi nên biết lắng nghe, học hỏi và tùy tình hình mà có sự vận dụng hợp lý vào khu nuôi của mình vì không có một mô hình nào hoàn thiện cho tất cả. Hay nói một cách khác là người nuôi cần chọn mô hình, công nghệ phù hợp trong phạm vi khả năng tài chính và kỹ thuật của mình cho phép. Về lý thuyết xem ra khá đơn giản, nhưng thực tế cho thấy khả năng ứng dụng các tiến bộ KHCN vào nghề nuôi hiện vẫn còn hạn chế, nên số diện tích nuôi theo mô hình công nghệ cao còn ít.

Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng chủ yếu là do đa phần người nuôi có diện tích nhỏ và thiếu vốn để đầu tư cải tạo, nâng cấp mô hình theo hướng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; là nguồn nước phục vụ nghề nuôi tại một số vùng chưa đáp ứng nhu cầu nuôi công nghệ cao... Do đó, để tiến bộ KHCN được phổ cập ngày một rộng rãi hơn trong ngành tôm, ngoài việc đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng vùng nuôi, vấn đề quan trọng là làm sao tổ chức lại sản xuất theo mô hình hợp tác xã nhằm tăng kết nối tốt hơn giữa người nuôi với các nhà cung cấp giống, thức ăn, hoặc chuyển giao kỹ thuật, chế biến xuất khẩu… đảm bảo người nuôi tiếp cận tốt hơn với các nguồn cung cấp đầu vào, vốn tín dụng, KHCN và thông tin thị trường.

Đa phần người nuôi tôm đều muốn cải tạo, nâng cấp mô hình, ứng dụng tiến bộ KHCN để nâng cao tỷ lệ thành công, tăng lợi nhuận, nhưng tất cả đều đang vướng ở một chữ “vốn”. Tình trạng thiếu vốn đang ngày càng phổ biến đối với người nuôi, trở thành căn bệnh trầm kha, thành rào cản sự phát triển của ngành tôm trong bối cảnh ngành tôm đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức ngày càng lớn hơn, nhiều hơn. Do đó, giải bài toán về vốn cho người nuôi tôm cũng chính là một trong những giải pháp quan trọng, nếu không muốn nói là hàng đầu để khơi thông dòng chảy KHCN đến tất cả các vùng nuôi tôm, góp phần nâng cao tỷ lệ thành công, giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh và nâng tầm vị thế ngành tôm trên thị trường thế giới.

TÍCH CHU

Nguồn Sóc Trăng: https://www.baosoctrang.org.vn/giao-duc-khoa-hoc-cong-nghe/khoi-dong-khoa-hoc-cong-nghe-73597.html