Khơi thông nguồn lực tư nhân vào hạ tầng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam

Tại phiên làm việc chiều 8/12, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã nghe tờ trình về đề xuất bổ sung cơ chế, chính sách áp dụng cho dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Đề xuất các chính sách đặc thù liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng

Trình bày tờ trình, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, dự án đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc - Nam được Quốc hội thông qua với với tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km; đi qua địa phận 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Chủ tọa điều hành phiên làm việc chiều 8/12. Ảnh: Quochoi.vn

Chủ tọa điều hành phiên làm việc chiều 8/12. Ảnh: Quochoi.vn

Quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật: đường đôi, khổ 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, vận chuyển hành khách và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết. Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 1.713.548 tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD) sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn hợp pháp khác. Tiến độ: lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025; cơ bản hoàn thành dự án năm 2035.

Tại thời điểm trình Bộ Chính trị chấp thuận chủ trương đầu tư tuyến ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam theo hình thức đầu tư công chưa có nhà đầu tư quan tâm, đề xuất đầu tự tuyến đường sắt này. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68- NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, đã có một số nhà đầu tư quan tâm đề xuất đầu tư; đối chiếu với Nghị quyết số 172/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội chưa có các quy định liên quan đến các hình thức đầu tư khác ngoài đầu tư công nên cần thiết phải tiếp tục rà soát, nghiên cứu bổ sung các cơ chế chính sách để làm cơ sở triển khai thực hiện nếu áp dụng các hình thức đầu tư này.

Trước mắt, Chính phủ đề xuất các chính sách đặc thù cho dự án liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng; các chính sách khác sẽ được tiếp tục rà soát, nghiên cứu báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành sau khi đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo đảm tính khả thi, bảo đảm hài hòa lợi ích nhà nước và doanh nghiệp, người dân.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày tờ trình. Ảnh: Quochoi.vn

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày tờ trình. Ảnh: Quochoi.vn

Cụ thể, Chính phủ đề xuất 2 chính sách và đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV của kỳ họp với nội dung chính sách bổ sung sau:

Nội dung thứ nhất, tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và công tác di dời công trình điện có điện áp từ 110 kV trở lên của Dự án thành các dự án độc lập, nguồn vốn được bố trí từ ngân sách Trung ương và địa phương.

Các địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam là cấp có thẩm quyền, tổ chức lập, quyết định đầu tư, thực hiện các dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn và việc đầu tư các hạng mục liên quan đến nội dung này không phải lập chủ trương đầu tư.

Nguồn vốn ngân sách Trung ương cấp trực tiếp cho địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam để thực hiện; trường hợp ngân sách trung ương chưa kịp bố trí, các địa phương được chủ động cân đối nguồn ngân sách địa phương để thực hiện, ngân sách Trung ương sẽ hoàn trả cho ngân sách địa phương sau khi cân đối được vốn. Giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết khoản này.

Đại biểu Quốc hội dự phiên làm việc chiều 8/12. Ảnh: Quochoi.vn

Đại biểu Quốc hội dự phiên làm việc chiều 8/12. Ảnh: Quochoi.vn

Nội dung thứ hai, trong thời gian Quốc hội không họp, Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho các phương thức đầu tư (nếu có) để kịp thời triển khai dự án và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Phù hợp chủ trương huy động nguồn lực xã hội cho các dự án chiến lược

Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính (UBKTTC) của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, UBKTTC cơ bản thống nhất với cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và thực tiễn đã được nêu tại tờ trình. Việc bổ sung cơ chế, chính sách cho dự án là cần thiết, phù hợp chủ trương của Đảng về huy động nguồn lực xã hội cho các dự án chiến lược, khơi thông nguồn lực tư nhân vào hạ tầng trọng điểm, đổi mới phương thức và đa dạng hóa hình thức đầu tư, đồng thời tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, các chính sách đề xuất tại Tờ trình số 1126/TTr-CP chưa rõ ràng, không giải quyết được các bức thiết, cấp bách của dự án; đề nghị cân nhắc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho chủ trương đối với các cơ chế, chính sách đề xuất bổ sung cụ thể áp dụng cho dự án.

Có ý kiến đề nghị nghiên cứu áp dụng quy định của Nghị quyết số 206/2025/QH15 ngày 24/6/2025 của Quốc hội về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc cụ thể của các luật đối với việc triển khai thực hiện dự án.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Quochoi.vn

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Quochoi.vn

Về các cơ chế, chính sách áp dụng cho dự án, với chính sách 1, UBKTTC nhận thấy việc Quốc hội cho phép tách nội dung thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án quan trọng quốc gia thành dự án thành phần đã có tiền lệ tại Nghị quyết số 38/2017/QH14 đối với Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Do đó, đề xuất của Chính phủ về việc tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và di dời công trình điện từ 110 kV trở lên của dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thành dự án riêng là có cơ sở.

Tuy nhiên, đề nghị làm rõ khái niệm “dự án độc lập”; xác định rõ sơ bộ tổng mức đầu tư, diện tích đất thu hồi, thời gian hoàn thành các dự án độc lập và sự đồng bộ, thống nhất của toàn dự án; bảo đảm không gây khó khăn, lãng phí nguồn lực khi chưa xác định được hướng tuyến, phạm vi, ranh giới thực hiện và kiểm soát chặt chẽ tổng mức đầu tư dự án.

Về chính sách 2, UBKTTC nhận thấy nội dung đề xuất này đã có trong quy định trong Nghị quyết của Quốc hội nên việc đề xuất là không cần thiết.

Phong Châu

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/khoi-thong-nguon-luc-tu-nhan-vao-ha-tang-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam.930197.html