Không có Mỹ, NATO sẽ thế nào khi đối đầu với Nga?

Nhà lãnh đạo tương lai của Đức, Friedrich Merz, đã không ngần ngại nói rằng 'ưu tiên tuyệt đối' của ông là 'sự độc lập' của châu Âu khỏi Mỹ.

Những phát biểu trên là một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho sự lo lắng lan tỏa khắp các thành viên NATO ở châu Âu và Canada khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và chính quyền của ông quay ngoắt, rời xa lục địa mà nước Mỹ đã bảo vệ trong nhiều thập kỷ.

Châu Âu và nước láng giềng phía bắc của Mỹ hiện đang phải vật lộn để tìm hiểu xem phần còn lại của NATO thực sự dễ bị tổn thương đến mức nào và liệu khối này có thể chống lại Nga mà không có sự hỗ trợ vững chắc mà Mỹ vẫn luôn dành cho các quốc gia thành viên hay không.

Nhà Trắng đã công khai tuyên bố sẽ tập trung sự ưu tiên vào khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhưng cũng đã tiến gần hơn đến việc xích lại gần Nga khiến nhiều thành viên NATO sửng sốt.

William Freer, nghiên cứu viên về an ninh quốc gia tại Hội đồng Địa chiến lược có trụ sở tại Anh, cho biết: “Trên lý thuyết, sức mạnh quân sự của NATO ở châu Âu khá tương đương với Nga trên nhiều lĩnh vực, nhưng sức mạnh trên lý thuyết này lại không thực tế”.

Chiến lược chiến đấu của các nước châu Âu trong NATO phụ thuộc vào các yếu tố hỗ trợ mà Mỹ đã cung cấp cho lục địa này từ lâu. Thuật ngữ hỗ trợ đề cập đến các khả năng như trinh sát, tình báo, tiếp nhiên liệu trên không và hậu cần.

William Freer cho biết thêm, các quốc gia NATO ít có khả năng hoạt động mà không có Mỹ, chưa kể họ có thể gặp khó khăn trong việc triển khai lực lượng đến bất cứ nơi nào cần thiết trong một kịch bản chiến tranh. Canada, mặc dù là một phần không thể thiếu trong mạng lưới phòng không của Mỹ, vẫn là một trong số ít quốc gia NATO không đạt được mục tiêu 2% GDP cho chi tiêu quốc phòng.

Lực lượng không quân

Một trong những lực lượng mạnh nhất của châu Âu là không quân. “Bạn không có lực lượng trên bộ hoặc hải quân để làm điều này”, một quan chức quân sự Mỹ cho biết, ám chỉ đến một cuộc đối đầu có thể xảy ra với Nga. Nhưng “ít nhất thì bạn có lực lượng không quân”.

Việc cắt giảm sức mạnh không quân của Mỹ thực sự để lại một vết lõm lớn trong lực lượng không quân của NATO, nhưng họ vẫn “tiên tiến hơn, có năng lực hơn và được huấn luyện tốt hơn” so với Nga, theo lời cựu Thống chế không quân Greg Bagwell, cựu chỉ huy cấp cao của Không quân Hoàng gia Anh.

“Vì vậy, đây không chỉ là trò chơi về con số”, ông nói. Bagwell cho rằng các lực lượng không quân phương Tây không có sự hỗ trợ của Mỹ nhìn chung có thể tự duy trì sức mạnh.

Các quốc gia NATO châu Âu vận hành nhiều mẫu máy bay chiến đấu tiên tiến, bao gồm máy bay phản lực Rafale do Pháp sản xuất, Gripens của Thụy Điển và Eurofighter Typhoon. Chúng thường được coi là có khả năng tương tác, có thể dễ dàng phối hợp với nhau.

Nhưng Mỹ chiếm “hơn một nửa” tổng số máy bay chiến đấu và máy bay tấn công mặt đất của NATO, Douglas Barrie, thành viên cấp cao về hàng không vũ trụ quân sự tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), một nhóm nghiên cứu nổi tiếng của Anh, lưu ý trong một bài bình luận gần đây.

Máy bay F-16 của Mỹ đã chiếm ưu thế ở châu Âu, nhưng đã bị loại bỏ ở nhiều quốc gia để chuyển sang máy bay chiến đấu tàng hình F-35 của gã khổng lồ quốc phòng Mỹ. Khoảng 20 quốc gia đã cam kết sử dụng máy bay F-35 thế hệ thứ năm, 12 trong số đó là thành viên NATO châu Âu, mặc dù một số quốc gia vẫn chưa nhận được máy bay phản lực tiên tiến này.

Theo IISS Military Balance 2025, báo cáo toàn diện về lực lượng quân sự thế giới, Không quân Hoàng gia Anh hiện có 159 máy bay chiến đấu và tấn công mặt đất, bao gồm 32 máy bay F-35B do Lockheed Martin sản xuất.

Lực lượng không quân Ý hiện đang vận hành 195 máy bay chiến đấu, bao gồm 24 chiếc F-35A và hai chiếc F-35B, trong khi Hà Lan có 40 máy bay chiến đấu, tất cả đều là F-35A. Canada có 89 máy bay tấn công mặt đất.

Các máy bay do Mỹ sản xuất “được hỗ trợ bởi số lượng lớn vũ khí không đối không và không đối đất”. Nhưng đã có những lo ngại sâu sắc về việc liệu các quốc gia NATO châu Âu có đủ vũ khí, hoặc các công ty quốc phòng châu Âu có thể lấp đầy những khoảng trống trong kịch bản chiến tranh như thế nào khi không có Mỹ

“Châu Âu sẽ phải tự mình vật lộn để giành được ưu thế trên không trước lực lượng Nga”, vốn có hệ thống phòng không mặt đất rất mạnh, Justin Bronk, chuyên gia về sức mạnh không quân từ Viện nghiên cứu Royal United Services (RUSI) có trụ sở tại London, đánh giá vào tháng 8/2024.

Mỹ chiếm ưu thế trong việc cung cấp các hệ thống phòng không trên mặt đất như Patriot, vốn đang thiếu hụt ở châu Âu. “Châu Âu sẽ phải hành động khá nhanh chóng và tìm ra những thứ có thể lấp đầy một số khoảng trống đó”, Bagwell nói.

Justin Bronk cho biết: “Vấn đề không phải là không có giải pháp nào, mà là chưa có quốc gia thành viên châu Âu nào đầu tư vào sự kết hợp cần thiết giữa máy bay, vũ khí, đào tạo chuyên gia và các yếu tố hỗ trợ phù hợp, mặc dù một số đã đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này”.

Châu Âu có các chương trình dài hạn như Chương trình Không quân chiến đấu toàn cầu (GCAP), một liên doanh giữa Anh, Ý và Nhật Bản để cung cấp máy bay chiến đấu thế hệ thứ sáu dự kiến đi vào hoạt động trong 10 năm nữa. Nhưng “không có lựa chọn thay thế thực sự nào khác bên ngoài nước Mỹ để cung cấp mức độ tàng hình” như F-35 thế hệ thứ năm trong thời gian này, Bagwell cho biết.

Sức mạnh không quân của Moscow đã cho thấy sự bình an vô sự trong cuộc chiến ở Ukraine, bởi “hầu hết lực lượng không quân chiến thuật không tham gia cuộc chiến này”, Tướng Lục quân Hoa Kỳ Christopher Cavoli, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Châu Âu của Hoa Kỳ, cho biết.

Theo đánh giá, lực lượng không quân của Nga rất đáng gờm. Nga có 449 máy bay chiến đấu và máy bay tấn công mặt đất, bao gồm cả Su-34 đã được sử dụng rộng rãi trong cuộc chiến với Ukraine và một số ít máy bay phản lực tàng hình Su-57, phần lớn đã được giữ tránh xa khỏi cuộc chiến. Theo IISS, Moscow cũng có 220 máy bay chiến đấu và 262 máy bay phản lực tấn công.

Trên đất liền

Cuộc chiến ở Ukraine đã ảnh hưởng nặng nề đến lực lượng bộ binh của Nga. Tháng trước, IISS cho biết Moscow đã mất 1.400 xe tăng chiến đấu chủ lực vào năm 2024, cùng với hơn 3.700 xe bọc thép khác.

Theo nhóm nghiên cứu, tổng cộng Nga đã mất khoảng 14.000 xe tăng và xe bọc thép kể từ tháng 2/2022. Cơ quan điều tra Oryx của Hà Lan, nơi lập danh mục các tổn thất được xác minh trực quan, cho biết Moscow đã mất ít nhất 3.786 xe tăng.

Nga đã dựa vào thiết bị thời Liên Xô, kéo xe tăng cũ ra khỏi kho và tinh chỉnh các phương tiện bất cứ khi nào có thể. IISS cho biết Nga đã tân trang và chế tạo hơn 1.500 xe tăng chiến đấu chủ lực và 2.800 xe bọc thép vào năm 2024. Nhưng kho dự trữ của Chiến tranh Lạnh là hữu hạn, đang dần cạn kiệt.

“Số thiết bị còn lại trong kho có thể cho phép Nga duy trì tỷ lệ tổn thất hiện tại trong ngắn hạn, nhưng một số lượng đáng kể các nền tảng này sẽ cần phải tân trang sâu và tốn kém”, IISS cho biết. Nhưng ngay cả khi đã đốt hết kho dự trữ cũ, nhóm nghiên cứu lập luận rằng Nga vẫn có khả năng xây dựng lại số lượng trong trung và dài hạn.

Các ước tính từ chính phủ Anh vào đầu năm 2024 cho thấy Nga có thể sản xuất khoảng 100 xe tăng mới mỗi năm. Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết vào tháng 2/2024 rằng sản lượng xe tăng trong nước đã tăng gấp 5 lần trong 2 năm.

Theo số liệu của IISS, Nga có 2.730 xe tăng chiến đấu chủ lực, từ T-55 cũ đến T-80 được nâng cấp, mặc dù các mẫu cũ nhất có thể đang được lưu kho. Ngoài ra, nước này còn có gần 3.000 xe tăng khác đang trong các giai đoạn sẵn sàng.

Theo dữ liệu của IISS, Anh, Pháp, Ý và Đức cộng lại có chưa đến 900 xe tăng chiến đấu chủ lực các loại. Ba Lan, quốc gia đã tăng mạnh chi tiêu quốc phòng, có hơn 660 xe tăng chiến đấu chủ lực, trong khi kho dự trữ của Hy Lạp lên tới 1.400. Romania, quốc gia có chung biên giới với Ukraine, có khoảng 377 xe tăng chiến đấu chủ lực. Theo số liệu của IISS, Canada chỉ có 74 xe tăng chiến đấu chủ lực.

Châu Âu đã cam kết cung cấp nhiều xe tăng hiện có cho nỗ lực chiến tranh của Kiev. Chính phủ Đức cho biết Berlin đã chuyển giao cho Ukraine 140 xe chiến đấu bộ binh Marder, 66 xe bọc thép chở quân và hơn 100 xe tăng Leopard 1 như một phần của dự án chung với Đan Mạch.

Liên minh châu Âu dường như cam kết tăng chi tiêu quốc phòng và đầu tư vào ngành công nghiệp của NATO, thay vì dựa vào tổ hợp công nghiệp quân sự hùng mạnh của Mỹ. Ursula von der Leyen, người đứng đầu Ủy ban châu Âu, đã công bố đầu tháng này một kế hoạch gọi là “tái vũ trang châu Âu”, được xây dựng để nâng cao năng lực quốc phòng toàn khối.

Sức mạnh hải quân

Hải quân Nga rất mạnh, bao gồm 4 hạm đội lớn cộng với Hạm đội Biển Caspi. Chỉ có Hạm đội Biển Đen, bị ảnh hưởng đáng kể bởi cuộc chiến tranh với Ukraine.

Moscow có thể tiếp cận, chủ yếu thông qua Hạm đội phương Bắc, tới 51 tàu ngầm, bao gồm 12 tàu ngầm tên lửa đạn đạo và 10 tàu ngầm tên lửa dẫn đường. Trong khi hạm đội tàu mặt nước của Nga kém ấn tượng hơn và chỉ có 1 tàu sân bay hiện không hoạt động, Điện Kremlin lại có các hạm đội tàu ngầm đáng gờm.

Hải quân Mỹ vẫn có sự hiện diện trên toàn cầu và 65 tàu ngầm các loại, tất cả đều chạy bằng năng lượng hạt nhân, cộng với 11 tàu sân bay. “Nước Mỹ có thể sản xuất nhiều tàu hơn bất kỳ quốc gia châu Âu nào”, Bagwell nói. Các quốc gia NATO châu Âu chỉ có một số ít tàu ngầm, Đức và Na Uy có 6; Hy Lạp có 10; Ý có 8; Ba Lan có 1; Thụy Điển có 4 và Hà Lan có 3. Canada có 4 tàu ngầm.

Anh và Pháp là những thành viên NATO duy nhất bên ngoài Mỹ có vũ khí hạt nhân, phần lớn được phóng từ tàu ngầm. Hải quân Pháp có 4 tàu ngầm tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân và Anh có 10 tàu ngầm, 4 trong số đó mang tên lửa hạt nhân.

London đang phát triển lớp tàu ngầm Dreadnought để thay thế tàu ngầm Vanguard vào đầu những năm 2030. Nhưng đã có những lo ngại về việc bảo trì và khả năng sẵn sàng của hạm đội tàu ngầm Anh, cùng với tình trạng thiếu hụt nhân lực và kỹ năng trong dịch vụ tàu ngầm, một tài liệu nghiên cứu của quốc hội Anh đã lưu ý vào đầu năm nay .

Vũ khí hạt nhân

Nga có kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới, vượt xa Mỹ. Moscow và Washington cùng nhau kiểm soát khoảng 90% vũ khí hạt nhân toàn cầu, bao gồm vũ khí hạt nhân chiến lược và chiến thuật.

Vũ khí hạt nhân của Anh và Pháp chỉ chiếm một phần nhỏ so kho vũ khí của Nga với dưới 300 đầu đạn mỗi loại. Cũng không rõ trong hoàn cảnh nào London và Paris sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân của họ để bảo vệ Điều 5 của NATO, vì vũ khí hạt nhân của Washington trong lịch sử đã đóng vai trò là biện pháp răn đe chính.

“Cuối cùng, năng lực mạnh nhất mà các nước NATO ở châu Âu có được là kho vũ khí hạt nhân của Vương quốc Anh; điều này cung cấp khả năng răn đe cực kỳ mạnh mẽ đối với hành vi xâm lược đối với bất kỳ thành viên NATO châu Âu nào”, Freer cho biết.

Chính phủ Anh quảng cáo chương trình răn đe hạt nhân của mình, một chương trình được tranh luận từ lâu có tên là Trident, là hoàn toàn độc lập.

“Anh thích gọi vị thế hạt nhân của mình là độc lập, nhưng tất nhiên không phải vậy”, Hans Kristensen, từ tổ chức nghiên cứu Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ, nói với tờ báo Anh The Guardian trong những ngày gần đây. “Có thể Anh có thể sử dụng vũ khí độc lập với Mỹ, nhưng toàn bộ cơ sở hạ tầng gồm các khoang tên lửa trên tàu ngầm, bản thân các tên lửa, tất cả đều do người Mỹ cung cấp”, Kristensen nói thêm.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã đưa ra ý tưởng mở rộng diện bao phủ vũ khí hạt nhân của Paris sang phần còn lại của châu Âu, một triển vọng được Ba Lan và các quốc gia vùng Baltic của NATO hoan nghênh nhưng lại bị Điện Kremlin chỉ trích là “cực kỳ đối đầu”.

TD (theo Newsweek)

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/khong-co-my-nato-se-the-nao-khi-doi-dau-voi-nga-242180.htm