Không để ai bị bỏ lại phía sau
'Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn' được Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp lần này, nhằm tạo sinh kế, tăng thu nhập cho người dân, giảm nghèo nhanh, bền vững, giải quyết căn cơ một số yêu cầu bức thiết về đời sống của đồng bào các dân tộc, đồng thời thu hẹp dần khoảng cách với vùng phát triển.
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là nơi khó khăn nhất
Chiều 21-10, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến trình bày Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số miền núi và vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn (sau đây gọi tắt là Đề án).
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến cho biết, nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới, chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước.
Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật phong phú đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn nước cung cấp cho khu vực đồng bằng.
Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đời sống của đồng bào các dân tộc đã được nâng lên rõ rệt, nhưng hiện nay vẫn là nơi khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất.
Cụ thể, vùng đồng bào DTTS và miền núi hiện vẫn là khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, thu nhập bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với cả nước; chưa giải quyết được tình trạng di cư tự phát; một bộ phận hộ DTTS thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt chưa được hỗ trợ kịp thời; tỷ lệ người DTTS chưa đọc thông, viết thạo tiếng Việt còn cao; mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế còn nhiều khó khăn. Bản sắc văn hóa tốt đẹp của nhiều dân tộc đang bị mai một. Cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan nhà nước các cấp chưa đạt được tỷ lệ theo quy định. Một số hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, tội phạm buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, buôn bán người qua biên giới... diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định an ninh trật tự.
Nguyên nhân chủ yếu là do đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tập trung ở vùng núi cao, biên giới, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, biến đổi khí hậu, sự cố môi trường bất thường… rất khó khăn thu hút đầu tư. Thêm vào đó, chính sách dân tộc hiện còn nhiều đầu mối quản lý, trách nhiệm không rõ ràng, nguồn lực vừa thiếu, vừa phân tán, dàn trải nên chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Từ tình hình trên, việc xây dựng “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn” là rất cần thiết.
Mục tiêu tổng quát của Đề án là nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển; giảm dần địa bàn đặc biệt khó khăn.
Đồng thời quy hoạch, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; cải thiện rõ rệt đời sống của nhân dân; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh biên giới quốc gia; củng cố tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, trong quá trình xây dựng Đề án, Chính phủ nhận thấy các xã bãi ngang ven biển, hải đảo tuy là địa bàn khó khăn nhưng không có hoặc có rất ít người DTTS sinh sống. Do đó, Chính phủ trình Quốc hội cho phép điều chỉnh lại tên Đề án thành “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Không để ai bị bỏ lại phía sau
Trình bày Báo cáo thẩm tra Đề án, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến cho biết, Hội đồng Dân tộc tán thành với sự cần thiết xây dựng Đề án như lý do cơ quan soạn thảo đã nêu và cho rằng, việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng cao, diện mạo vùng DTTS và miền núi đã thay đổi rõ rệt. Nhưng hiện nay, đây vẫn là vùng khó khăn nhất. Khoảng cách phát triển, mức thu nhập bình quân của người DTTS so với mặt bằng chung cả nước chưa được thu hẹp mà có xu hướng ngày càng doãng ra.
Mặt khác, vùng DTTS và miền núi hiện có 118 văn bản chính sách còn hiệu lực, do nhiều cơ quan chủ trì xây dựng, quản lý, tổ chức thực hiện nên nguồn lực bị phân tán, dàn trải, khó lồng ghép, hiệu quả không cao, khó xác định rõ trách nhiệm. Do đó, cần phải có giải pháp tổng thể, khắc phục những tồn tại, hạn chế của giai đoạn vừa qua, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển toàn diện vùng DTTS và miền núi, nhằm thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển và mức thu nhập của đồng bào DTTS so với cả nước, như mục tiêu của Đảng, Nhà nước đã đề ra.
Từ việc xem xét, đánh giá kết quả ba năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2016 - 2018, tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết giao Chính phủ xây dựng Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp lần này để thực hiện từ năm 2021.
Điều đó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với công cuộc xây dựng, phát triển vùng DTTS và miền núi; thể chế hóa quy định tại Điều 5 Hiến pháp năm 2013: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Đây cũng là nội dung được Việt Nam cam kết trước cộng đồng quốc tế: “Không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Bên cạnh đó, việc Quốc hội phê duyệt Đề án là cụ thể hóa việc thực hiện khoản 5, Điều 70 Hiến pháp năm 2013 “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của nhà nước”. Tạo bước ngoặt mới, đột phá cho công tác dân tộc và chính sách dân tộc.
Hội đồng Dân tộc cũng đồng tình với quan điểm xây dựng Đề án để tích hợp chính sách, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, thu gọn đầu mối quản lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng; bảo đảm và nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư; tập trung ưu tiên đầu tư cho vùng đặc biệt khó khăn của vùng DTTS và miền núi.
Hội đồng Dân tộc cho rằng, chính sách đối với vùng DTTS và miền núi phải chuyển từ chính sách hỗ trợ là chủ yếu sang chính sách đầu tư, trong đó xác định ngân sách nhà nước là quan trọng và giữ vai trò quyết định.
Đồng thời xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi nhằm góp phần tăng cường năng lực nội sinh, thúc đẩy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên của đồng bào các dân tộc. Phân cấp nhiều hơn cho địa phương và người dân, cộng đồng trong tổ chức thực hiện chính sách.
Căn cứ những cơ sở trên và với tình cảm, trách nhiệm trước hơn 14 triệu đồng bào các DTTS, Hội đồng Dân tộc đề nghị Quốc hội xem xét phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi” tại kỳ họp này. Trên cơ sở Đề án được phê duyệt, Quốc hội giao cho Chính phủ tiếp tục xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong năm 2020, để thực hiện từ năm 2021.