Không gian nghệ thuật ngoài công lập trong đời sống đương đại

Các không gian nghệ thuật ngoài công lập được tạo dựng và phát huy vai trò nhất định trong việc thúc đẩy sáng tạo nghệ thuật và đa dạng hóa đời sống văn hóa – nghệ thuật đương đại.

Các vấn đề phân bố không gian nghệ thuật ngoài công lập, lịch sử hình thành loại hình không gian, mối quan hệ với thiết chế hay tái định nghĩa nghệ thuật – mỹ thuật… được các diễn giả chia sẻ tại tọa đàm Kể chuyện thành phố: “Network - Các không gian nghệ thuật tại Seoul, Hà Nội và Mumbai” vừa diễn ra.

Toàn cảnh tọa đàm Kể chuyện thành phố: “Network - Các không gian nghệ thuật tại Seoul, Hà Nội và Mumbai”.

Toàn cảnh tọa đàm Kể chuyện thành phố: “Network - Các không gian nghệ thuật tại Seoul, Hà Nội và Mumbai”.

Nghệ thuật thắp sáng khu ổ chuột

Nghệ sĩ người Ấn Độ Kristine Rodricks cho biết tại Mumbai (Ấn Độ), không gian nghệ thuật tập trung dày đặc ở phía Nam thành phố. Điều này nằm trong sự quy hoạch của người Anh thời kỳ đô hộ Ấn Độ, nhằm mục đích phục vụ chính quyền đô hộ và giới thượng lưu Ấn Độ. Vì vậy, các không gian ấy không đại diện cho toàn thành phố và đặt ra vấn đề phân hóa tầng lớp trong việc hưởng thụ và sáng tạo nghệ thuật.

Nghệ sĩ Kristine Rodricks chỉ ra không gian nghệ thuật tập trung ở phía Nam Mumbai.

Nghệ sĩ Kristine Rodricks chỉ ra không gian nghệ thuật tập trung ở phía Nam Mumbai.

Trước thực trạng đó, nhiều nghệ sĩ và tổ chức lựa chọn đặt không gian sáng tạo ngoài khu vực Nam Mumbai. Đó là các không gian nghệ thuật độc lập, được tạo dựng từ tòa nhà dân cư cũ, là nơi tụ họp cộng đồng và phát triển kỹ năng mà tiêu biểu là Nirmik Cultural Center và Nazaria Arts Collective’s Kahani Labs. Tại đây, các chương trình sáng tác nghệ thuật diễn ra song hành với cuộc sống của cộng đồng.

“Nirmik Cultural Center được xây dựng với thiết kế đơn giản, hoạt động chủ yếu với tầng lớp Dalit. Trung tâm đưa nghệ thuật biểu diễn và sân khấu đến gần cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em. Ngoài ra, không gian nghệ thuật này còn tổ chức các buổi chiếu phim độc lập – vốn hiếm gặp tại rạp thương mại. Trong khi đó, Nazaria Arts Collective’s Kahani Labs mời các chuyên gia điện ảnh từ Nam Mumbai đến giảng dạy trực tiếp cho học sinh ở khu ổ chuột, giúp các em tiếp cận liên hoan phim trong nước, quốc tế và có cơ hội bước vào ngành công nghiệp phim ảnh”, Kristine Rodricks chia sẻ.

Một buổi học làm phim tại Nazaria Arts Collective’s Kahani Labs. Ảnh: Homegrown

Một buổi học làm phim tại Nazaria Arts Collective’s Kahani Labs. Ảnh: Homegrown

Tại đây, các chương trình đều sử dụng ngôn ngữ bản địa, thay vì tiếng Anh như ở Nam Mumbai, không phụ thuộc vào nguồn quỹ nhà nước. Hoạt động tài chính dựa trên ba nguồn chính: quỹ hạn chế theo dự án, quỹ cộng đồng với sự đóng góp một phần thu nhập từ nghệ sĩ, và hình thức cho thuê không gian... Ngoài ra, còn có sự hỗ trợ phi tài chính như kỹ thuật, nhân lực...

“Xu hướng nổi bật ở đây là sự dịch chuyển đa trung tâm. Nghệ thuật không còn tập trung ở một khu vực duy nhất, mà lan tỏa thành mạng lưới rộng mở, dỡ bỏ rào cản tiếp cận cho tầng lớp thấp. Chính cộng đồng trở thành chủ thể định hình và dẫn dắt, qua đó đặt lại câu hỏi về tiêu chí thế nào là thành công trong nghệ thuật đương đại”, Kristine Rodricks nhận định.

Thiết chế và không gian nghệ thuật ngoài công lập

Trong bối cảnh nghệ thuật đương đại Hàn Quốc, việc xin quỹ được xem là con đường gần như duy nhất để các không gian nghệ thuật ngoài công lập duy trì hoạt động. Lịch sử của mô hình này tại Seoul cho thấy sự phát triển tập trung ở Thủ đô, nơi được coi như đại diện cho toàn quốc.

Gonggan Show, Room. Ảnh: Tài liệu tọa đàm

Gonggan Show, Room. Ảnh: Tài liệu tọa đàm

Không gian nghệ thuật ngoài công lập và thiết chế tại Seoul (Hàn Quốc) có quan hệ tương hỗ. Theo nhà thực hành nghệ thuật Jinie Park, Hàn Quốc có hệ thống phân phối quỹ khá tốt cho các không gian nghệ thuật ngoài công lập, tuy nhiên chị lo ngại điều này không chỉ ảnh hưởng sự tồn tại mà còn định hình không gian nghệ thuật tại nước này: “Mọi thứ đều phụ thuộc vào quỹ. Theo quy định, nếu không gian nghệ thuật ngoài công lập tồn tại được ba năm mới được gửi hồ sơ xin quỹ, nhiều tổ chức không thể duy trì hoạt động vì phí thuê nhà tại Seoul cao”. Tuy vậy, vẫn có nơi hiếm hoi hoạt động dù không nhận được sự hỗ trợ tài chính nào, như Gonggan Show, Room”.

Ngoài ra, trường hợp Alternative Space LOOP (1999) – không gian thay thế lâu đời nhất tại Seoul, nhận được sự hỗ trợ thể chế về tài chính, câu hỏi đặt ra là tính “thay thế” tại Alternative Space LOOP hiện nay ở đâu? Jinie Park kể quá trình xin quỹ cho dự án nữ quyền sinh thái: “Người ta phải hạn chế tối đa nói “nữ quyền” vì “nhạy cảm” khi xin quỹ từ chính phủ”.

Dự án “Nữ quyền sinh thái” được tổ chức tại Alternative Space LOOP năm 2024. Ảnh: Tài liệu tọa đàm.

Dự án “Nữ quyền sinh thái” được tổ chức tại Alternative Space LOOP năm 2024. Ảnh: Tài liệu tọa đàm.

Trình bày về tiến trình không gian nghệ thuật ngoài công lập Hàn Quốc, Jinie Park chia sẻ, từ năm 1990 – 2000, xuất hiện “Alternative Space” (Daean Gonggan) – không gian thay thế. Tiếp đến, những năm 2010, hình thành “New Space” (Sinsaeng Gonggan) – không gian mới. Từ năm 2020 đến nay, “Independent Space” (không gian độc lập), “Art Space” (không gian nghệ thuật)… được kiến tạo.

Khái niệm “Alternative space”- không gian thay thế được dùng lần đầu tiên vào thập kỷ 1970, do nghệ sĩ vị niệm Brian O’doherty đặt. Khái niệm này du nhập vào Hàn Quốc cuối những năm 90 của thế kỷ 20: “Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, nguồn hỗ trợ cho nghệ thuật và văn hóa bị cắt giảm. Các dự án được phân bổ tài chính hạn chế, chỉ nghệ sĩ nổi tiếng hoặc bán được tác phẩm mới được làm việc trong không gian văn hóa. Từ đó, các không gian thay thế ra đời”, Jinie Park chia sẻ.

Những không gian này ra đời nhằm phản ứng lại và ủng hộ các thực hành nghệ thuật không được hệ thống thiết chế kinh viện của nhà nước như bảo tàng, trường nghệ thuật, các không gian của chính phủ... hỗ trợ. Nhưng các tổ chức này duy trì hoạt động nhờ và quỹ của chính phủ.

Triển lãm Parallel Paths, Seoul, Hàn Quốc (2018) của Hyunsun Jeon tại Alternative Space LOOP. Ảnh: Yoon Byoungjoo.

Vào thập niên 2010, khái niệm “New Space” – không gian mới xuất hiện. Khi các không gian thay thế hoạt động thời gian đủ lâu, như Alternative Space Loop, họ trở nên rất có danh tiếng và giành được hết các nguồn tài trợ lớn, và dần đồng nhất với hệ thống kinh viện. Các không gian mới ra đời là một phản ứng với những không gian thay thế đã bị kinh viện hóa.

Khác với thế hệ trước, các nghệ sĩ 8X thành lập những không gian này với tư cách cá nhân. Họ tập trung vào triển lãm nhỏ, hợp tác cùng bạn bè và đồng nghiệp, nhằm tìm cách tồn tại trong môi trường nghệ thuật cạnh tranh. Từ thập niên 2020, nhiều nhóm nghệ sĩ không còn mong muốn gắn nhãn cho hoạt động của mình.

“Nghệ thuật” và “mỹ thuật”

Theo nhà thực hành văn hóa Phạm Út Quyên, Heritage Art Space, khái niệm “nghệ thuật” được du nhập vào Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 thông qua việc Pháp thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

“Ở Việt Nam, “bảo tàng” tập trung nhiều hơn vào các hiện vật lịch sử, phản ánh sự phát triển của nền văn minh dân tộc trong một câu chuyện vĩ mô, trong khi đó “bảo tàng mỹ thuật” là những địa điểm dành riêng cho việc sưu tầm và nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật riêng lẻ, chủ yếu phản ánh thế giới tâm linh của người nghệ sĩ và là sự tổng hòa giữa nghệ thuật và lịch sử. Ngoài chức năng trưng bày, bảo tàng nghệ thuật còn có chức năng sưu tầm, nghiên cứu, giáo dục và phổ biến, với mục đích kích thích sự đổi mới thông qua việc xây dựng lịch sử nghệ thuật”, bà Quyên nhận định.

Theo bà Quyên, “nghệ thuật” thực chất đồng nghĩa với “mỹ thuật”, trong khi “mỹ học” được thu gọn lại thành sự đánh giá cái đẹp. “Mỹ thuật đương đại” được hiểu là một sự mở rộng của mỹ thuật hiện đại: hội họa và điêu khắc, với trọng tâm là biểu đạt thẩm mỹ. “Nghệ thuật đương đại” là một thuật ngữ rộng hơn, bao gồm các hoạt động phi truyền thống, trải dài trên cả hình thức vật chất và đa phương tiện, bao gồm các tác phẩm liên ngành và phi vật chất. Tuy nhiên, nó có xu hướng loại trừ các tác phẩm thuần túy mang tính thẩm mỹ.

Sự cộng sinh giữa nghệ thuật và thiên nhiên giúp cho nghệ thuật tương tác trực tiếp với khán giả, một cách gần gũi, dễ hiểu và thực tế. Ảnh: Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Flamingo

Sự cộng sinh giữa nghệ thuật và thiên nhiên giúp cho nghệ thuật tương tác trực tiếp với khán giả, một cách gần gũi, dễ hiểu và thực tế. Ảnh: Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Flamingo

Khảo sát bảo tàng tư nhân tại Hà Nội, bà Quyên cho biết, có 8 bảo tàng tư nhân giai đoạn 2001–2006; có 30 bảo tàng tư nhân giai đoạn 2006–2016, tới năm 2024 số bảo tàng tư nhân là 60. Đồng thời, nhà thực hành văn hóa cũng trình bày hiện trạng và quá trình nghiên cứu một số bảo tàng hay tổ chức nghệ thuật tư nhân: Bảo tàng Mỹ thuật Phan Thị Ngọc Mỹ (2006), Bảo tàng Mỹ thuật Sỹ Tốt và Gia đình (2006), Dự án Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Sóng Mây (2016), Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Flamingo (2020), tổ chức nghệ thuật đương đại tư nhân The Outpost (2022), Dự án Bảo tàng Vũ Tân Dân (2024).

Bên cạnh đó, diễn giả Cao Thiên Thanh, Heritage Art Space, cũng trình bày quy trình, yêu cầu, thủ tục cần thiết để xin cấp phép bảo tàng ngoài công lập. Trong đó, đề xuất giải pháp tối ưu hóa thủ tục: rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan; hướng dẫn cụ thể cho cá nhân, doanh nghiệp xin cấp phép…

Cụ thể về thực trạng trong việc cấp phép bảo tàng ngoài công lập, bà Quyên nhận định: “Việc xin cấp phép thành lập bảo tàng trên thực tế lại phức tạp hơn nhiều và khả năng cho từng bảo tàng có thể được cấp phép còn tùy vào từng thời điểm chính trị và tính chất của mỗi bộ sưu tập. Trong đó, yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới việc xin cấp phép hoạt động cho một bảo tàng ngoài công lập nằm ở hai khía cạnh: tính chất của mỗi bộ sưu tập và cơ sở vật chất”.

Minh Trang

_____________

* Tọa đàm Kể chuyện thành phố: “Network - Các không gian nghệ thuật tại Seoul, Hà Nội và Mumbai” do Heritage Art Space tổ chức cùng sự hỗ trợ của Arts Council Korea diễn ra ngày 13.9 tại Hà Nội.

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/khong-gian-nghe-thuat-ngoai-cong-lap-trong-doi-song-duong-dai-49866.html