Khung pháp lý về tiền kỹ thuật số phải đảm bảo lợi ích và an ninh quốc gia

Khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số cần được xây dựng để bắt kịp xu thế kinh tế số toàn cầu nhưng phải đảm bảo ổn định chính sách tiền tệ và nền tài chính quốc gia.

Khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số ra đời là một yêu cầu tất yếu để Việt Nam bắt kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế số toàn cầu.

TS Nguyễn Đình Thái, chuyên gia Quản lý Công, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM, cho rằng xây dựng pháp luật về tiền kỹ thuật số là việc làm chưa có tiền lệ. Do đó, cần đưa ra khung pháp lý đủ mạnh ở khâu quản lý, để môi trường pháp lý tạo lập, phát triển được thị trường tiền kỹ thuật số, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, phòng, chống tội phạm, bảo vệ nhà đầu tư.

Kiểm soát hoạt động rửa tiền

. Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về xu thế tài sản số, tiền kỹ thuật số trong bối cảnh hiện nay?

+ TS Nguyễn Đình Thái: Đây là xu thế tất yếu khách quan, bởi tiền kỹ thuật số, bao gồm tiền điện tử (cryptocurrency) và tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC), đang trở thành một phần quan trọng của nền kinh tế số toàn cầu.

 Khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số ra đời là một yêu cầu tất yếu, bắt kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế số toàn cầu. Ảnh: AFP

Khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số ra đời là một yêu cầu tất yếu, bắt kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế số toàn cầu. Ảnh: AFP

Theo thống kê của công ty đầu tư toàn cầu Henley & Partners, năm 2024 có 172.300 cá nhân trên toàn thế giới nắm giữ từ 1 triệu USD tiền điện tử trở lên, tăng 95% so với năm 2023. Theo công ty phân tích CoinGecko, tổng giá trị thị trường của tiền điện tử đã đạt mức cao kỷ lục gần 3,2 nghìn tỉ USD vào tháng 11-2024.

Tại Việt Nam, theo báo cáo của Triple-A, khoảng 21,2% dân số sở hữu tiền điện tử, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) với 34,4%.

Số liệu khác từ CryptoCrunchApp cho thấy Việt Nam có khoảng 25,9 triệu người sở hữu tiền điện tử, đứng thứ ba toàn cầu. Ngoài ra, theo báo cáo của Finder, phần lớn người Việt Nam (70%) sở hữu tiền điện tử là ở độ tuổi 18-34, trong khi đó, chỉ 25% là ở độ tuổi từ 35-54.

Bên cạnh đó, sự gia tăng của các giao dịch tiền điện tử, sự phát triển của công nghệ blockchain và nhu cầu thanh toán số ngày càng cao đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Việt Nam trong việc xây dựng hành lang pháp lý nhằm quản lý, giám sát và tận dụng lợi ích mà tiền kỹ thuật số mang lại.

. Với xu thế ấy, cần sớm xây dựng khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số?

+ Ngoài lý do tiền kỹ thuật số là xu thế tất yếu khách quan bắt buộc chính phủ phải quan tâm thì việc xây dựng khung pháp lý cho nó còn là vấn đề lợi ích và an ninh quốc gia. Bởi khung pháp lý góp phần bảo đảm ổn định chính sách tiền tệ và nền tài chính quốc gia. Việc sử dụng tiền kỹ thuật số rộng rãi có thể làm giảm vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát cung tiền, gây khó khăn cho việc thực hiện chính sách tiền tệ.

Nếu không có sự kiểm soát hợp lý, các dòng tiền lớn chảy vào tiền kỹ thuật số có thể làm mất giá tiền pháp định, gây lạm phát hoặc thậm chí khủng hoảng tài chính.

 TS Nguyễn Đình Thái, chuyên gia Quản lý Công, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM, hiến kế khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số.

TS Nguyễn Đình Thái, chuyên gia Quản lý Công, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM, hiến kế khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số.

Trong giai đoạn 2021-2022, sự biến động mạnh của Bitcoin và sự sụp đổ của các nền tảng như FTX đã tác động lớn đến thị trường tài chính toàn cầu, làm mất hàng tỉ USD của nhà đầu tư. Vì vậy, Việt Nam cần có khung pháp lý để kiểm soát rủi ro này, đảm bảo sự ổn định kinh tế.

Khung pháp lý đầy đủ cũng sẽ giúp Việt Nam bảo vệ quyền lợi người sở hữu, giao dịch tiền kỹ thuật số, hạn chế các vụ lừa đảo, tội phạm tài chính liên quan đến tiền kỹ thuật số đang gia tăng.

Theo báo cáo của Chainalysis (Công ty chuyên cung cấp dịch vụ phân tích dữ liệu blockchain, Hoa Kỳ), năm 2022, tội phạm tiền kỹ thuật số đã chiếm hơn 20 tỉ USD trên toàn cầu, trong đó các vụ lừa đảo chiếm khoảng 7,8 tỉ USD. Tại Việt Nam, nhiều vụ lừa đảo liên quan đến tiền kỹ thuật số đã được ghi nhận, điển hình là vụ sàn giao dịch Coolcat sập vào năm 2021, khiến hàng ngàn nhà đầu tư thiệt hại hàng trăm tỉ đồng.

Đặc biệt, có khung pháp lý sẽ giúp kiểm soát và phòng chống hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố thông qua tiền kỹ thuật số. Theo báo cáo của Liên Hợp quốc, khoảng 2-5% GDP toàn cầu, tương đương 800-2.000 tỷ USD mỗi năm, liên quan đến các hoạt động rửa tiền. Trong đó, tiền kỹ thuật số đang trở thành công cụ phổ biến để thực hiện các giao dịch phi pháp. Vụ hack sàn giao dịch Bitfinex năm 2016 với số tiền 4,5 tỉ USD hay vụ Lazarus Group của Triều Tiên bị cáo buộc rửa hàng trăm triệu USD tiền kỹ thuật số là những minh chứng rõ ràng.

Ngoài ra, khung pháp lý rõ ràng cũng sẽ giúp thu hút các doanh nghiệp công nghệ tài chính (fintech), thúc đẩy nền kinh tế số.

Là tài sản chịu thuế

. Để có khung pháp lý phù hợp với Việt Nam, cần lưu ý gì, thưa ông?

+ Trước hết, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam cần công nhận tiền số là một loại tài sản, giúp xác định quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi của họ và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền số.

Trên thực tế, nhiều quốc gia đã xem tiền số như một loại tài sản chịu thuế và áp dụng các quy định tương ứng. Đơn cử như Mỹ xem tiền số là tài sản theo quy định của Sở Thuế vụ (IRS), yêu cầu người nắm giữ tiền điện tử phải báo cáo thu nhập và đóng thuế. Tại EU, Quy định MiCA đã đưa ra các điều khoản về giao dịch và lưu ký tài sản kỹ thuật số, tạo môi trường pháp lý rõ ràng.

Đồng thời, cần có quy định về cơ quan chuyên trách thực hiện giám sát về tiền kỹ thuật số của Việt Nam. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã triển khai các cơ quan quản lý tiền kỹ thuật số, kiểm soát các hoạt động liên quan đến rửa tiền.

Tại Việt Nam, cần thành lập một cơ quan chuyên trách dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước hoặc Bộ Tài chính để cấp phép và giám sát hoạt động của các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số; xây dựng và thực thi quy định về KYC/AML (nhận diện khách hàng và chống rửa tiền); kiểm soát rủi ro tài chính và bảo vệ nhà đầu tư; phối hợp với các cơ quan quốc tế để ngăn chặn gian lận và tội phạm tài chính…

Xử phạt hình sự nếu lừa đảo, trốn thuế

. Vậy khung pháp lý phải chặt chẽ ra sao khi tiền kỹ thuật số là việc làm chưa có tiền lệ?

+ Tôi cho rằng đầu tiên phải định nghĩa, chỉ rõ đây là loại hình như thế nào, gồm các dạng thức ra sao. Đồng thời, cần phân biệt đâu là tiền thật được giao dịch trên không gian số và tiền số; đâu là sản phẩm đầu tư và đâu là sản phẩm có thể sử dụng trong giao dịch, thanh toán, để đảm bảo các lợi ích của người dân, doanh nghiệp; đâu là đồng tiền số của quốc gia phát hành... Từ đó, xác định phạm vi điều chỉnh, bao gồm việc phân loại các loại tiền kỹ thuật số được công nhận, xác định trách nhiệm của các bên liên quan và thiết lập các nguyên tắc quản lý phù hợp.

Ví dụ tại Mỹ, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) phân loại một số tiền điện tử là chứng khoán, trong khi Sở Thuế vụ (IRS) coi chúng là tài sản chịu thuế.

Ở Singapore, Cơ quan tiền tệ Singapore (MAS) quy định các loại tiền điện tử có thể được sử dụng như phương tiện thanh toán hợp pháp. Ngược lại, Trung Quốc đã cấm hoàn toàn giao dịch tiền điện tử nhưng đang phát triển tiền kỹ thuật số quốc gia (CBDC).

Đối với Việt Nam, việc xác định phạm vi điều chỉnh cần cân nhắc giữa việc công nhận tiền điện tử là tài sản, phương tiện thanh toán hoặc công cụ đầu tư. Điều này giúp tạo ra sự rõ ràng trong quản lý, bảo vệ quyền lợi người dân và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số.

Trong khung pháp lý về tiền kỹ thuật số, cần có quy định về quy trình, điều kiện đăng ký và cấp phép các sàn giao dịch. Để các sàn giao dịch này được cấp phép thì phải đăng ký với mạng lưới chống tội phạm tài chính, với Bộ Công an về bảo mật trong hoạt động giao dịch ngân hàng, quy định chống rửa tiền và tuân thủ nhận diện khách hàng.

Còn cơ quan cấp phép phải quy định rõ năng lực tài chính của các sàn, yêu cầu mức độ bảo mật dữ liệu; đảm bảo thông tin minh bạch về các giao dịch, tổ chức và hoạt động của sàn; cũng như có cơ chế quản lý rủi ro, chống gian lận, trốn thuế; đánh giá công nghệ của các sàn giao dịch; tuân thủ sau khi đưa vào hoạt động cần có các quy định về kiểm soát, giám sát, tuân thủ các quy định về báo cáo giao dịch, kiểm toán định kỳ…

Song song đó, cần có các quy định để bảo vệ người sở hữu và giao dịch tiền kỹ thuật số. Trong đó, sàn giao dịch và dự án tiền kỹ thuật số cần công bố rõ ràng thông tin về sản phẩm, rủi ro và mô hình hoạt động. Quy định về cơ chế bồi thường và bảo hiểm cho loại hình tiền kỹ thuật số.

Đặc biệt, trong quy định của pháp luật cần cấm tuyệt đối các dự án tiền kỹ thuật số kêu gọi nhà đầu tư bỏ vốn vào dự án. Các sàn thực hiện chào bán token cần phải đăng ký trước với cơ quan quản lý. Bởi vì hầu hết các dự án phát hành token bằng cách kêu gọi người dân bỏ tiền ra để mua, sở hữu trước khi list sàn khi chưa đăng ký với cơ quan chức năng là lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Tôi cho rằng cần quy định về thuế và ghi nhận tiền kỹ thuật số như thế nào trong hệ thống chính sách thuế và hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để quản lý và phát triển thị trường tiền kỹ thuật số.

Quy định của pháp luật cần ghi nhận tiền kỹ thuật số là tài sản và áp dụng chính sách thuế như tài sản truyền thống khi giao dịch hoặc bán; nên áp dụng ở mức phù hợp để kích thích phát triển thị trường và kê khai thuế.

Chưa kể, cần có quy định nghiêm ngặt về chế độ bảo mật, an toàn thông tin, an ninh mạng trong thị trường tiền kỹ thuật số. Trong đó yêu cầu xác thực qua bao nhiêu lớp để ngăn chặn truy cập trái phép; quy định về quy trình chuyển tiền kỹ thuật số, ví điện tử để đảm bảo an toàn giảm nguy cơ bị tấn công; bắt buộc các doanh nghiệp, sàn giao dịch lưu dữ liệu tại máy chủ nội địa để tăng cường kiểm soát của nhà nước Việt Nam.

Ngoài ra, phải có quy định về giám sát, xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi hoạt động không phép, gian lận giao dịch. Thậm chí quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi lợi dụng thị trường, đồng tiền số để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, trốn thuế của các sàn, cá nhân tham gia giao dịch.

Thử nghiệm tại trung tâm tài chính quốc tế

Việc quản lý và phát triển thị trường tiền kỹ thuật số phải gắn với các trung tâm tài chính của quốc gia, khu vực và liên kết quốc tế.

Do vậy, sau khi có những khung pháp lý cơ bản, cần thực hiện các cơ chế thử nghiệm tại các sàn giao dịch gắn liền với các trung tâm tài chính quốc tế như TP.HCM, Đà Nẵng để có đánh giá thiết thực, chính xác hơn trước khi có chính sách tiếp theo.

Có thể Việt Nam thực hiện thí điểm mô hình sandbox với quy mô phù hợp với các sàn, doanh nghiệp fintech dựa trên nền tảng blockchain, tài sản mã hóa, ngân hàng số nhắm kích thích phát triển hệ sinh thái tài chính số bên cạnh hệ sinh thái tài chính truyền thống tại các trung tâm tài chính quốc gia.

Không chỉ vậy, cần tiến tới xây dựng được hệ sinh thái của tiền kỹ thuật số của Việt Nam, phải có đồng tiền kỹ thuật số của quốc gia Việt Nam.

Xây dựng, vận động để đồng tiền này có được sự đồng thuận trong giao dịch với các quốc gia, biến Việt Nam là quốc gia mạnh hàng đầu thế giới về công nghệ blockchain và thị trường tiền kỹ thuật số.

TS NGUYỄN ĐÌNH THÁI, ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM

LÊ THOA thực hiện

Nguồn PLO: https://plo.vn/video/khung-phap-ly-ve-tien-ky-thuat-so-phai-dam-bao-loi-ich-va-an-ninh-quoc-gia-post837832.html