Kiên định con đường, mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn
Trước mọi sóng gió thời cuộc, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững bước chèo lái đưa đất nước vượt mọi khó khăn, cam go, khốc liệt, từng bước phát triển. Đây là chỉ lối để chúng ta tiếp nối thành quả cách mạng, hướng tới mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước. Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám (19-8-1945 / 19-8-2025), Báo Quân đội nhân dân chia sẻ một số ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học xung quanh nội dung này.
GS, TS NGUYỄN TRỌNG CHUẨN, Phó chủ tịch Hội Triết học Việt Nam, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Triết học:
Giữ vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân, dân với Đảng
Từ khi Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời cho đến bây giờ, các thế lực thù địch chưa bao giờ ngừng công kích và đòi giải tán Đảng ta. Chiêu trò, thủ đoạn của chúng nhằm thực hiện âm mưu hạ thấp uy tín, vai trò, thậm chí đòi xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội ngày càng tinh vi hơn. Song chúng càng dai dẳng chống phá thì càng lộ rõ bản chất, bộ mặt thật, bị người dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài vạch mặt, đứng lên bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.

Nhờ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định nên đất nước ta ngày một phát triển (trong ảnh: Một góc phía Tây TP Hải Phòng). Ảnh: PHÚ SƠN
Tầm vóc, vị thế đất nước trên trường quốc tế; môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh ngày càng được tăng cường, kinh tế-xã hội ngày một phát triển, đời sống nhân dân ngày một nâng cao... là minh chứng sống động, cụ thể chứng tỏ vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng, phản bác mạnh mẽ các luận điệu xuyên tạc. Những thành tựu này của đất nước không chỉ được toàn thể dân tộc ghi nhận mà bạn bè quốc tế, trong đó có nhiều nước chống đối trước đây thừa nhận.
Trải qua nhiều biến chuyển, sóng gió thời cuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều này hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa học, dựa trên thực tiễn thời đại. Có những nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây lầm tưởng rằng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, đa nguyên, đa đảng mới thoát khỏi nghèo nàn, nhưng Đảng ta đã chứng minh điều ngược lại. Đảng luôn dựa vào dân, trung thành với lợi ích của nhân dân nên dân tin Đảng, bảo vệ Đảng.
Vì vậy, khẩu hiệu “mỗi người dân là một chiến sĩ” không chỉ trong chiến đấu, sản xuất mà còn trong bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Cho nên bất cứ thế lực thù địch nào dù ở trong nước hay nước ngoài cũng đều thất bại; bất cứ một âm mưu, hành động phi pháp nào để chống lại Đảng, chống lại đất nước cũng đều bị nhân dân phát hiện, báo cho lực lượng chức năng xử lý. Đó là cơ sở bảo đảm vững chắc cho sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, cho mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân, dân với Đảng.
---------
Thiếu tướng, PGS, TS, NGND NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Phụ trách Nhóm Chuyên gia 35 Quân ủy Trung ương:
Kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”
Không ít ý kiến cho rằng “Việt Nam nên từ bỏ chính sách quốc phòng “bốn không” để gia nhập liên minh quân sự hoặc liên kết với nước này chống nước kia nhằm “tăng cường sức mạnh” trong bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay”.
Đây là một quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, tiềm ẩn nguy cơ đẩy đất nước vào vòng xoáy đối đầu, xung đột, đánh mất môi trường hòa bình quý giá. Chính sách quốc phòng “bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, là tuyên bố rõ ràng về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Đây không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, mà là lựa chọn khôn ngoan, giúp Việt Nam tránh bị lôi kéo vào cạnh tranh chiến lược, bảo vệ trọn vẹn chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sống động của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường mà dân tộc ta có được. Nhờ dó, chúng ta đã giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra kỷ nguyên mới. Ngày nay, tinh thần ấy vẫn là ngọn đuốc soi đường, dẫn lối để Việt Nam kiên định lập trường hòa bình, không đánh đổi độc lập, chủ quyền để lấy bất cứ thứ gì. Kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” là lựa chọn chiến lược đúng đắn, giúp chúng ta giữ vững thế cân bằng, tránh bị lôi kéo hoặc tự trói mình vào các cam kết quân sự, đối đầu với một số quốc gia, biến Việt Nam thành điểm “nóng”.
Kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” giúp Việt Nam giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Từ bỏ “bốn không” không phải tăng sức mạnh, mà là tự đánh mất thế chủ động, tiềm ẩn nguy cơ mất hòa bình. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dạy chúng ta rằng: Độc lập, tự do là vô giá và chỉ khi tự mình làm chủ vận mệnh, đất nước mới vững bền. Kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” chính là giữ gìn hòa bình, bảo vệ tương lai của con cháu chúng ta.
---------
GS, TS NGUYỄN HỒNG THAO, Ủy viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc:
Ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Nền ngoại giao Việt Nam được hun đúc và trưởng thành từ Cách mạng Tháng Tám, giữ vai trò trọng yếu trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân, góp phần làm nên những thắng lợi vang dội, rạng rỡ trong lịch sử dân tộc. Hai thành tựu nổi bật của nền ngoại giao Việt Nam đó là cuộc đàm phán, ký kết Hiệp định Geneva năm 1954, góp phần giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc đàm phán, ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973, tạo tiền đề để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chính hai sự kiện ngoại giao lịch sử này đã khép lại hơn 100 năm Việt Nam chịu ách đô hộ, khẳng định đối ngoại là mặt trận tiên phong, mở lối, phá thế bao vây cấm vận, từng bước khơi thông quan hệ với nhiều đối tác quốc tế, hình thành cục diện mới, tạo tiền đề quan trọng cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, đường lối ngoại giao của Việt Nam luôn được duy trì nhất quán, là kết tinh từ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông. Ngay từ những ngày đầu lập quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao phương châm ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước làm gốc để ứng xử linh hoạt trước mọi biến động của tình hình trong nước và quốc tế. Chính sự kết hợp giữa kiên định về mục tiêu cách mạng và mềm dẻo trong sách lược đã giúp chúng ta bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia qua mọi giai đoạn lịch sử.
Theo tôi, để phát huy tốt những thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giúp đất nước vươn mình trong hội nhập quốc tế, nền ngoại giao Việt Nam cần kiên định lấy lợi ích dân tộc làm trọng, kết hợp hài hòa với lợi ích quốc tế trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Tiếp tục chủ động tăng cường đoàn kết, hợp tác với các quốc gia, đặc biệt là các nước trong khu vực, nhằm xây dựng một môi trường khu vực hòa bình, hợp tác, cùng phát triển. Đặc biệt, ngoại giao cần hoạt động dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng, trung thành với nhân dân, Tổ quốc. Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng, với những thách thức từ biến động địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, ngoại giao Việt Nam càng cần tiếp tục nâng cao năng lực, chủ động nắm bắt, ứng dụng thành tựu khoa học-công nghệ để theo kịp yêu cầu của thời đại và xu thế phát triển của thế giới.
---------
TS NGUYỄN MINH PHONG, Ủy viên Hội đồng tư vấn kinh tế (Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), Phó chủ tịch Hiệp hội Thông tin, tư vấn kinh tế thương mại Việt Nam:
Giữ vững niềm tin và khát vọng vươn lên
Suốt 80 năm qua, đặc biệt là sau gần 4 thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã khẳng định vị thế của mình trên bản đồ kinh tế, chính trị thế giới. Từ một quốc gia thu nhập thấp, Việt Nam hiện là nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN, nằm trong tốp 20 quốc gia có quy mô thương mại cao nhất toàn cầu, là điểm đến hấp dẫn của các dòng vốn đầu tư quốc tế. Thành quả lớn nhất không chỉ nằm ở con số tăng trưởng mà còn ở sự ổn định chính trị và quá trình hoàn thiện thể chế, tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, khuyến khích đổi mới sáng tạo và bảo đảm quyền lợi của người dân, doanh nghiệp.
Sự hội nhập sâu rộng đã giúp Việt Nam từng bước nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, cải thiện các chỉ số quốc tế về năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo, môi trường đầu tư. Tham gia Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và hàng loạt hiệp định thương mại tự do, chúng ta đã mở rộng quan hệ với hầu hết các nền kinh tế lớn, tận dụng tốt cơ hội từ các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, ứng dụng công nghệ, giảm dần xuất khẩu nguyên liệu thô. Kinh tế số và các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo, thanh toán số, dịch vụ công nghệ cao đang trở thành động lực tăng trưởng quan trọng. Không chỉ kinh tế, đời sống của người dân cũng có bước cải thiện đáng kể. Nước ta liên tục được ghi nhận trên các bảng xếp hạng quốc tế về chỉ số hạnh phúc, phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo. Đó là kết quả của chính sách nhất quán lấy người dân làm trung tâm, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp và địa phương.
Tuy vậy, chặng đường phía trước không hề đơn giản. Mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao năng suất lao động, tăng sức chống chịu trước biến động kinh tế toàn cầu, đồng thời giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chuyển đổi số và xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, chúng ta cần kiên định con đường hội nhập nhưng phải chủ động, linh hoạt, tận dụng tối đa lợi thế về nhân lực, vị trí chiến lược và uy tín quốc tế đã được xây dựng.
Thành tựu hôm nay là kết quả của tầm nhìn chiến lược, sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước và nỗ lực của toàn dân. Tương lai sẽ được định hình bởi khả năng biến thách thức thành cơ hội, giữ vững niềm tin và khát vọng vươn lên. Hành trình hội nhập và phát triển bền vững của nước ta không chỉ là câu chuyện kinh tế, chính trị mà còn là khát vọng của một dân tộc muốn sánh vai cùng các cường quốc năm châu.