Kiến thiết với tâm thế mới
Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.
Điều thú vị là, họ đều đề cập đến sự cân bằng, hài hòa giữa nhiều yếu tố vật chất và tinh thần của tất cả các bên liên quan để có được một không gian đáng sống.
KTS Nguyễn Luận: "Sợi chỉ đỏ" xuyên suốt là cân bằng sinh thái

KTS Nguyễn Luận.
Năm 1979, đồ án của tôi, "Nhà ở nông thôn: đơn vị cân bằng sinh thái", đã đạt Giải nhất Cuộc thi Kiến trúc Quốc tế do Hiệp hội hợp tác văn hóa và kỹ thuật (ACCT) và UNESCO tổ chức tại Paris, Pháp. Thời điểm ấy, ở nước ta, khái niệm sinh thái hay cân bằng sinh thái chưa được mấy ai quan tâm, còn bị coi là rất khó hiểu chứ không phải phổ biến như bây giờ.
Lý thuyết trong đồ án này, thật ra, một phần được gợi ý từ chính cách sống của người dân ở nông thôn. Trong một chuyến đi thực tế ở vùng Sài Sơn (nay thuộc thành phố Hà Nội), tôi rất ấn tượng về hai khu vườn gia đình. Trong đó, có một khu vườn gồm ba tầng cây, thấp nhất là rau trồng theo luống, tầng giữa là các cây cần giàn leo, như mướp, bầu, tầng cao nhất là nhiều loại cây ăn quả. Bà lão chủ nhà sống một mình, các con cháu đi công tác xa. Cách sống và chăm sóc vườn cây, rau của bà cụ khiến tôi suy nghĩ nhiều. Đây chính là gợi ý cho khái niệm “sinh khối”, tức là làm thế nào để trong một mét vuông đất, có nhiều cây xanh nhất. Từ thực tế đó, kết hợp với những lý thuyết cơ bản về sinh thái học mà tôi có dịp nghiên cứu từ khi du học ở Cu Ba về kiến trúc (năm 1967-1972), tôi đã xây dựng hệ lý thuyết về nhà ở sinh thái hiện đại cho nông thôn Việt Nam. Theo đó, có hai điểm cốt lõi: chuỗi thức ăn chính và sinh khối với sợi chỉ đỏ xuyên suốt là cân bằng sinh thái.
Trong một khuôn viên nhà ở nông thôn, lý tưởng nhất là có vườn trồng rau, hoa quả, có ao thả cá và lấy nước tưới cây, có chuồng nuôi gia súc, gia cầm và hầm biogas để tạo khí đốt cho bếp. Nói cách khác, đó là vòng tuần hoàn sinh thái, cân bằng, triệt để tận dụng mọi nguồn hữu cơ cho sinh hoạt thường nhật. Song, tùy thuộc nhu cầu cụ thể, các hộ gia đình ở nông thôn áp dụng mô hình này theo cách của họ: Có thể có vườn và chuồng hoặc ao, tức là không đầy đủ cả chuỗi, song phổ biến nhất chính là sản phẩm đầu cuối: hầm biogas, với nguyên liệu hữu cơ không nhất thiết từ vườn chuồng của gia đình, mà có thể thu gom trong làng.
Đến nay, những biến đổi trong đời sống nông thôn đòi hỏi có những sự thay đổi trong nhận thức về thiết kế quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết kiến trúc, đem tới nhiều cơ hội phát triển cho khu vực cư trú này.
Tôi cho rằng, văn hóa làng với cấu trúc của một ngôi làng sẽ luôn được bồi đắp. Cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, những khuôn viên nhà thờ họ tộc là các chỉ dấu kiến trúc trong không gian văn hóa làng, văn hóa dòng tộc, không bao giờ mất đi được, tuy hình thức của một ngôi làng có thể thay đổi theo thời gian- điều hiển nhiên trong dòng chảy chung của sự phát triển xã hội. Trước xu thế chung, cần tìm cách để văn hóa làng và văn minh đô thị được cân bằng với nhau, hạn chế được tối đa những mặt trái của văn minh đô thị.
Một người nông dân hiện giờ đã có thể trở thành một streamer bán hàng trực tuyến-dấu hiệu của toàn cầu hóa, tức là họ vừa là người sản xuất, đầu tư sản xuất, vừa là người kinh doanh. Khi ấy, cách sống của họ chắc chắn sẽ khác với cách sống của một nông dân thuần túy “con trâu đi trước, cái cày theo sau” như trước kia. Một khuôn viên nhà ở nông thôn hiện giờ và trong tương lai có thể có vườn nhỏ hơn, không còn chuồng nuôi gia súc, gia cầm. Ao trong khuôn viên một gia đình hiếm dần… Một ngôi làng sẽ có nhiều nhà cao tầng hơn. Bể và bếp biogas có thể không còn phù hợp nhiều hộ gia đình, thay vào đó là bếp gas, bếp điện… Chính vì vậy, cần có một tầm nhìn chiến lược cho quy hoạch ở vùng nông thôn, hướng đến sự phát triển chất lượng cuộc sống đúng nghĩa cho người dân, thay vì chỉ chú trọng đến diện mạo từng ngôi nhà đơn lẻ.
Để một làng, một xã trong bối cảnh hiện nay có điều kiện tự chủ phát triển, cũng cần có các quy hoạch tổng thể tiến bộ hơn. Tôi lấy thí dụ, tùy vào hoàn cảnh cụ thể, một đơn vị xã có thể tự chủ về quỹ đất cho khu công nghiệp để thúc đẩy cơ khí sửa chữa, chế tạo, chế biến sâu sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp và xử lý rác thải, cho thương mại dịch vụ để không chỉ phục vụ cư dân trên địa bàn mà còn hướng đến phát triển du lịch, kinh doanh bất động sản, tạo nguồn thu cho địa phương. Mà đã có công nghiệp, thương mại dịch vụ tức là có văn minh đô thị.
KTS Lê Minh Hoàng: Tiếp nhận, lắng nghe minh triết của cộng đồng

KTS Lê Minh Hoàng.
Một số công trình công cộng do tôi và cộng sự thực hiện là thử nghiệm kiến trúc được phát triển, gợi cảm hứng từ nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống của Việt Nam và phù hợp không gian văn hóa bao quanh. Có thể kể đến các hạng mục công trình với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ tại một giáo phận thuộc tỉnh Ninh Bình hiện nay; Trung tâm thông tin bên trong khuôn viên Nhà thờ Lớn Hà Nội (giải Bạc- Giải thưởng Kiến trúc quốc gia năm 2020-2021, thể loại kiến trúc công cộng); Nhà thông tin bên trong Nhà thờ Hàm Long, Hà Nội...
Qua thời gian sử dụng, những thử nghiệm này được kiểm chứng thực tế đủ lâu, từ độ bền vững về mặt vật lý (dưới tác động của khí hậu, thời tiết cực đoan, việc sử dụng của con người...) tới tâm lý đón nhận của cộng đồng. Công trình đứng vững qua các đợt bão lớn trong hai năm qua, sức bền của vật liệu, cách nhiệt và thông thoáng tốt, đặc biệt là chi phí và giải pháp bảo dưỡng quen thuộc, hợp lý có lẽ là những điểm tiên quyết thuyết phục cộng đồng người thụ hưởng kiến trúc. Việc được tin tưởng và giao nhiệm vụ thực hiện các đồ án khác của cộng đồng có lẽ là minh chứng lớn cho khả năng nhân rộng thực hành này. Tuy nhiên, điều tôi muốn đề cập thêm là gần đây, cộng đồng địa phương thậm chí còn chia sẻ với tôi về một số đồ án khác mà họ tự thực hiện theo phương thức tương tự cách chúng tôi đã giới thiệu và thực hiện cùng họ. Một thực thể kiến trúc không cần kiến trúc sư thật sự, nhưng khả dụng và hài hòa với tổng thể mà tôi đã quy hoạch và kiến tạo. Về khía cạnh tâm lý, quá trình “dân gian hóa kiến trúc được thiết kế” là minh chứng khác cho sự đón nhận của cộng đồng đối với những thử nghiệm như thế này, dù ban đầu, thật sự là rất khó để đặt được những “viên gạch đầu tiên” ở làng quê Bắc Bộ…
Một trong các tiêu chí quan trọng của kiến trúc có tính cộng đồng là cộng đồng tham gia trực tiếp trong quá trình kiến tạo, vận hành và sử dụng thay vì thuần túy tiếp nhận bàn giao từ một tổ chức nào đó và thụ hưởng. Trong trường hợp này “công nghệ” được lan tỏa và chuyển giao thật sự hiệu quả từ kiến trúc sư đến cộng đồng.
Trong thực hành kiến trúc, việc thuyết phục chủ đầu tư chấp nhận thử nghiệm của kiến trúc sư là cả một quá trình, đặc biệt với các cộng đồng và làng xã truyền thống Bắc Bộ có nếp nghĩ tưởng chừng bất biến qua nhiều thế hệ. Tâm thế của kiến trúc sư trong hoàn cảnh này có thể là tiếp nhận thay vì giáo dục, “truyền bá” về nhận thức kiến trúc mà mình tự cho là mới, là đúng đắn. Thực tế, cộng đồng địa phương có minh triết của họ và kiến trúc sư chỉ nhận thấy khi giao tiếp đủ sâu với họ. Tiếp nhận không có nghĩa là thỏa hiệp hoàn toàn mà là để cân nhắc về giải pháp phù hợp.
KTS Hà Đức Cương: Một căn nhà hài hòa với thiên nhiên, khí hậu

KTS Hà Đức Cương.
Thiết kế ngôi nhà Túp (Túp House) của tôi, xây dựng tại ngôi làng của đồng bào người Thái ở vùng núi phía tây tỉnh Thanh Hóa đã được trao giải Bạc- Giải thưởng kiến trúc quốc gia năm 2024-2025, hạng mục Nhà ở.
Để thuyết phục chủ đầu tư thuận theo đề xuất thiết kế ngôi nhà này, tôi đã dành thời gian tìm hiểu đời sống và nhu cầu của chủ nhà cũng như cộng đồng dân cư chung quanh. Tôi chuẩn bị kỹ lưỡng về thông tin thiết kế cũng như cách trình bày, giải thích cho chủ nhà về mục đích, ý nghĩa của thiết kế, lắng nghe các ý kiến từ chủ nhà và gắn bó với họ theo mọi giai đoạn, từ thiết kế, thi công tới hoàn thiện.
Do xây dựng với chi phí hạn hẹp, công trình gặp nhiều khó khăn về vốn và phải trải qua hơn 5 năm mới hoàn thành. Về cơ bản, công trình thể hiện được khoảng 90% nếu so với thiết kế ban đầu.
Trong quá trình sử dụng với điều kiện khí hậu thời tiết có phần cực đoan, công trình chưa gặp vấn đề gì phức tạp để chủ nhà phải cải tạo sửa chữa lớn. Duy chỉ có phần sân vườn là được sửa sang lại để phù hợp hơn với cuộc sống của gia đình họ.
Từ thực tế của Túp House, tôi rút ra được nhiều quan điểm về thiết kế một căn nhà vừa vặn với thực tế không gian, như sau: tránh tác động quá lớn vào địa hình, địa thể mảnh đất xây nhà; đặt vị trí trong nhà sao cho ít phải chặt bỏ cây xanh, để nhà được nép mình vào màu xanh tự nhiên càng nhiều càng tốt; thiết kế hình thái mái nhà đóng vai trò quan trọng để che nắng và thông gió- chính là mái nhà sàn truyền thống đã được giữ lại cho căn nhà này; đồng thời vẫn giữ cho căn nhà có tinh thần rộng mở, luôn gắn bó với hàng xóm láng giềng; tạo cảm giác về tính đoàn tụ, gắn bó gia đình thông qua các thiết kế không gian nội thất rất mở, giúp duy trì cách sống như dưới mái nhà truyền thống (ở đây là nhà sàn) trong hình hài một kiến trúc hiện đại.
Tôi cho rằng, căn nhà nên là một nguồn cảm hứng để tiếp nối các giá trị truyền thống từ kiến trúc bản địa, đồng thời ứng xử hài hòa với thiên nhiên, khí hậu. Vì mỗi một công trình cũng như con người sinh ra, không ai giống ai, có tâm hồn và thể chất riêng, nhưng thái độ, đạo đức và tinh thần có thể lan tỏa cho những con người khác.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/kien-thiet-voi-tam-the-moi-post929800.html











