Kiến thức và kỹ năng, ưu tiên gì trong giáo dục?
Như VOV đã đề cập, trước đề nghị biên soạn một bộ SGK dùng chung trên toàn quốc, nhiều ý kiến cho rằng, đây cũng là cơ hội để điều chỉnh nội dung chương trình cho phù hợp bối cảnh xã hội mới.
Không ít kiến thức các môn Toán, Lý, Hóa… hiếm khi sử dụng trong cuộc sống thường ngày, trong khi kỹ năng sống, giao tiếp, kỹ năng số,… lại là hành trang thiết yếu mà học sinh cần được tích lũy từ sớm.

Không ít kiến thức Toán, Lý, Hóa,… hiếm khi sử dụng trong cuộc sống thường ngày, trong khi kỹ năng sống, giao tiếp, kỹ năng số,… lại là hành trang thiết yếu mà học sinh cần được tích lũy từ sớm (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Kiến thức lý thuyết và năng lực thực tế, chương trình giáo dục phổ thông nên đặt trọng tâm vào đâu cho thế hệ trẻ?
Tiếng trống khai giảng vang lên cũng là lúc chị Nguyễn Khánh Vân, ở Hoàng Mai, Hà Nội bước vào hành trình mới cùng con gái học lớp 3. Năm ngoái, chị Vân đã phải cùng cháu giải phép nhân, dù không phải toàn bộ bảng cửu chương nhưng chị cho rằng, kiến thức phổ thông nói chung hiện khá nặng:
"Những kiến thức trong trường lớp của các con đôi khi rất nặng. Tôi chỉ ví dụ như môn toán, những kiến thức như đạo hàm, tích phân,… cá nhân tôi khi đã ra trường và đi làm, tôi không hề động đến những kiến thức này. Thay vào đó, tôi rất mong muốn Bộ Giáo dục sẽ đề cập sâu các nội dung như văn hóa, xã hội, hay những kỹ năng sống cho các con".
Nhịp sống đô thị dồn dập, công nghệ cuộn chảy từng ngày đã thay đổi cách con người làm việc, giao tiếp, học tập. Do đó, nhiều phụ huynh và học sinh cho rằng, chương trình giáo dục cũng cần bước theo guồng chuyển động ấy:
"Em muốn môn Tin học sẽ được chú trọng hơn. Em ở Hải Dương, mặc dù các phòng tin vẫn được sử dụng nhưng học sinh sẽ chỉ được sử dụng ở mức cơ bản. Nhiều khi lên đại học, các bạn còn chưa biết mở máy tính".
"Em nghĩ nên đưa vào chương trình những kỹ năng sống thực tế hơn, những kỹ năng sinh tồn. Điển hình vừa rồi cũng nhiều vụ chết đuối thương tâm".
"Tôi muốn giảm bớt sự nặng nề cho học sinh. Ngoài học lý thuyết, học kỹ năng sống cũng giúp trẻ biết tự bảo vệ bản thân nhiều hơn, ví dụ như khi bị bắt cóc".
Nói về kiến thức lý thuyết, anh Nguyễn Đăng Khoa, một giáo viên Toán THPT ở Gia Lâm, Hà Nội cho rằng, các môn khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển thế giới quan khoa học và tư duy logic cho học sinh.
Tuy nhiên, nhiều em học chuyên môn xã hội từng chia sẻ với thầy và cho rằng, kiến thức môn toán dường như quá nặng, dừng lại ở nội dung lớp 11 có lẽ hợp lý hơn.
PGS. TS. Trịnh Văn Minh, Trường đại học Giáo dục cho rằng, Chương trình GDPT 2018 đã tập trung nhiều hơn vào phát triển kỹ năng so với chương trình trước. Trong đó, hoạt động trải nghiệm ở các cấp học đã định hướng khá rõ việc phát triển kỹ năng cho học sinh.

Công nghệ số, sức khỏe tâm lý, giáo dục giới tính, kỹ năng ứng xử đa văn hóa,… đang trở thành ''đề thi'' thực tế mà SGK chưa kịp soạn đáp án (Ảnh minh họa - Fahasa)
Còn việc đánh giá lại SGK, xem kiến thức có nặng hay không, chắc chắn sẽ được thực hiện sau khi hoàn tất một vòng thay sách:
"Bộ Giáo dục đã thành lập các ban để rà soát chương trình phổ thông, trong đó có đề nghị phải xem lại một số nội dung có hàn lâm quá không so với thực tế. Chương trình vẫn là định hướng chung, nhưng cốt lõi là người dạy và người học có triển khai thực hiện đúng như mong muốn của chương trình hay không. Đây là vấn đề mà các trường đại học sư phạm, nơi đào tạo giáo viên, cần rút kinh nghiệm, tiếp tục xem xét việc đào tạo ban đầu và bồi dưỡng cho giáo viên đứng lớp".
Còn chuyên gia giáo dục, TS. Vũ Việt Anh cho rằng, SGK hiện nay, về lý thuyết đã cung cấp nền tảng kiến thức tương đối đầy đủ cho học sinh. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống với cuộc cách mạng 4.0 đang đòi hỏi những kỹ năng rất quan trọng khác như tư duy phản biện, tư duy giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản lý thời gian, hay giáo dục về tài chính,…
"UNESCO đưa ra 4 trụ cột trong giáo dục rất rõ ràng: học để hiểu biết, học để làm việc, học để chung sống và học để trở thành. Tuy nhiên, SGK hiện nay của chúng ta mới dừng lại ở việc học để hiểu biết. Việc ứng dụng vào thực tế còn khá khó khăn, đặc biệt là với cơ sở vật chất hiện nay.
Hoặc chúng ta đánh giá theo một số tiêu chí của Tổ chức Lao động thế giới: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Chúng ta thấy hiện nay SGK mới tập trung vào mảng kiến thức. Chúng ta không thể đặt một bên trọng, một bên khinh, cần cùng một lúc rèn luyện cả phẩm chất, kỹ năng và kiến thức.
Đặc biệt, bây giờ có trợ lý AI, các năng lực sáng tạo, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, sử dụng công nghệ thông tin là những năng lực rất cần nhấn mạnh. Năng lực ngoại ngữ cũng vậy. Trong thời gian tới, chúng ta rất cần có những tiêu chí đánh giá chính xác".
Góp ý thêm về việc điều chỉnh chương trình SGK, giáo viên Nguyễn Đăng Khoa cho rằng: "Mình mong sẽ có nhiều bản dịch SGK của các nước trên thế giới, nhất là các nước có nền giáo dục hàng đầu để giáo viên, học sinh, người dân có thể tiếp cận, mở rộng. Mình nghĩ nên dùng mô hình hóa nhiều hơn nữa. Mỗi nội dung có các phần dẫn về tiểu sử của các nhà khoa học. Thông qua những câu chuyện nho nhỏ, có thể kích thích được tình yêu khoa học".
Giáo dục Việt Nam đã gặt hái nhiều thành tựu nhờ truyền thống coi trọng tri thức. Nhiều thế hệ học sinh đã làm nên kỳ tích ở các kỳ thi quốc tế, và trở thành lực lượng lao động chất lượng cao.
Tuy nhiên, thế giới đang chuyển dịch nhanh chóng với công nghệ số, kinh tế toàn cầu và những thách thức đa chiều. Kiến thức nền tảng vẫn là bệ đỡ không thể thiếu, nhưng thay vì nhồi nhét, cần lọc lại những nội dung quá xa rời cuộc sống để dành thời gian rèn luyện những kỹ năng của thời đại mới.
Để bài học bước ra khỏi trang sách
Những trang sách dày cộp công thức, định luật, trích dẫn,… có lẽ là “người bạn” đồng hành quen thuộc với nhiều thế hệ học sinh Việt Nam. Họ trưởng thành cùng những kỳ thi, giải thành thạo nhiều dạng bài tập, nhưng không ít người cảm thấy hoang mang khi bước ra cuộc sống ngoài trang sách, bỡ ngỡ trước một buổi phỏng vấn, hay chật vật tìm cách ứng xử trên không gian mạng,…

Học sinh có cả chặng đường dài để rèn luyện những bài tập phức tạp, nhưng nền tảng nhân cách nếu không được uốn nắn sớm thì khó có cơ hội bù đắp (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Và mỗi lần kỳ thi đại học đến, những câu trả lời ngô nghê của thí sinh, như “Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em”, lại làm dậy sóng dư luận về sự mất cân đối trong cách dạy và học. Rồi những vấn đề mang hơi thở cuộc sống như: lừa đảo trực tuyến nhắm vào học sinh, tình trạng mang thai ở tuổi vị thành niên gia tăng, hay các vụ tai nạn thương tích,… cũng khiến nhiều phụ huynh bất an.
Mạng xã hội đang biến người trẻ thành công dân số toàn cầu từ tuổi thiếu niên. Công nghệ số và trí tuệ nhân tạo mở ra những ngành nghề chưa từng có. Tinh thần hay vấn đề sức khỏe tâm lý, giáo dục giới tính, kỹ năng ứng xử đa văn hóa,… đang trở thành “đề thi” thực tế mà SGK chưa kịp soạn đáp án. Nếu chỉ tiếp tục “nạp” tri thức mà không rèn khả năng ứng dụng thì trường học sẽ dần trở thành nơi trông trẻ và mất vai trò dẫn dắt.
Nhìn ra thế giới, nhiều quốc gia đã điều chỉnh trọng tâm giáo dục từ lâu. Singapore không chỉ dạy toán giỏi mà còn chú trọng “life skills” - kỹ năng sống. Phần Lan đã thay SGK truyền thống bằng cách học theo chủ đề, kết hợp kiến thức liên môn và kỹ năng mềm. Vì vậy, giáo dục Việt Nam cần sớm cập nhật chương trình theo hướng thực tế và nhân văn hơn.
Giáo dục kỹ năng phải trở thành trục chính của chương trình, không phải nội dung ngoại khóa tùy hứng. Toán học vẫn quan trọng, nhưng thay vì quá tập trung bài toán hàn lâm, có thể đưa vào kiến thức quản lý tài chính cá nhân, lập ngân sách, phân tích dữ liệu thực tiễn.
Ngữ văn vẫn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, nhưng ngoài các tác phẩm kinh điển, học sinh cần tập viết email, thuyết trình, lập luận logic. Lịch sử không chỉ để thuộc lòng năm tháng, mà để phân tích dòng chảy xã hội và học cách phản biện thông tin sai lệch.
Điều này đòi hỏi SGK không khép kín, mà mở ra khung chương trình rõ ràng nhưng linh hoạt, để mỗi địa phương, mỗi giáo viên có quyền sáng tạo và điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn.
Và cũng không cần thiết phải nhồi nhét quá nhiều kiến thức cho học sinh từ cấp tiểu học, khi thứ cần tập trung nhiều hơn ở độ tuổi này là đạo đức và nhân cách. Thay vì hàng chục dạng toán cộng trừ cho học sinh lớp 1, thì hàng chục tình huống vứt rác như: Không có thùng thì vứt ở đâu, hay mình giữ gìn nhưng người khác xả rác bừa bãi thì ứng xử thế nào,… sẽ giúp trẻ hình thành thói quen và ý thức công dân ngay từ đầu đời.
Các em có cả chặng đường dài để rèn luyện những bài tập phức tạp, nhưng nền tảng nhân cách nếu không được uốn nắn sớm thì khó có cơ hội bù đắp.

Giáo dục kỹ năng phải trở thành trục chính của chương trình, không phải nội dung ngoại khóa tùy hứng. Trường học cần mở rộng không gian trải nghiệm, thay giờ học đơn điệu bằng nhiều dự án (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Cũng phải nhìn nhận thực tế việc đưa kỹ năng mới vào trường học không dễ dàng. Chúng ta thiếu cơ sở vật chất, thiếu giáo viên được đào tạo bài bản, thiếu tài liệu chuẩn hóa và còn tồn tại định kiến về những nội dung nhạy cảm.
Nhiều giáo viên vẫn bị áp lực chạy theo chương trình, học sinh trở thành người ghi chép, ít cơ hội trải nghiệm khi kỳ thi vẫn xoay quanh những bài học lý thuyết. Song phải quyết tâm thay đổi thì mới có thể rút ngắn khoảng cách giữa trường học và đời sống.
Trường học cần mở rộng không gian trải nghiệm, thay giờ học đơn điệu bằng dự án cộng đồng, hoạt động ngoại khóa, lớp kỹ năng sinh tồn, CLB sáng tạo. Thi cử phải đo được năng lực vận dụng và khả năng hợp tác, thay vì chỉ đánh giá trí nhớ.
Ngoài việc điều chỉnh chương trình thì cũng cần điều chỉnh nhân lực để thực hiện. Các chương trình đào tạo giáo viên phải được thay đổi để đáp ứng yêu cầu mới, để thầy cô trở thành người dẫn đường, không chỉ giàu kiến thức chuyên môn mà còn cập nhật cả kỹ năng hiện đại.
Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ, môi trường làm việc cũng phải đủ hấp dẫn để giữ chân những người giỏi và truyền cảm hứng cho thế hệ giáo viên mới. Cơ sở vật chất cũng phải được đầu tư cho phù hợp yêu cầu dạy và học. Đây cũng là lúc phải tính tới nguồn lực tài chính và xã hội hóa, để giáo dục không chỉ dựa vào ngân sách mà còn huy động được sự đồng hành của gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp.
Câu hỏi kiến thức hay kỹ năng quan trọng hơn, không có đáp án tuyệt đối. Kiến thức là nền móng, kỹ năng là công cụ, nếu thiếu một trong hai thì con người khó toàn diện. Nhưng trong thời đại mới, cần mạnh dạn chuyển trọng tâm giáo dục từ “học để biết” sang “học để làm” và “học để chung sống”.
Giữa guồng quay đổi mới, nền giáo dục Việt Nam như người chèo đò đang đứng trước khúc sông chia nhánh. Một nhánh dẫn đến bến an toàn quen thuộc, nơi thi cử vẫn đo trí nhớ, bài giảng vẫn rập khuôn. Một nhánh là dòng chảy mới, đòi hỏi cải cách mạnh mẽ để đào tạo công dân linh hoạt, tự tin.
Lựa chọn hướng đi không dễ, nhưng nếu không bẻ lái thì con thuyền giáo dục sẽ mãi xoay vòng giữa “biển” kiến thức mà thiếu “bản đồ” kỹ năng. Đã đến lúc cầm chắc mái chèo, dám đương đầu sóng lớn, để thế hệ trẻ Việt Nam không chỉ học giỏi mà còn sống giỏi, làm giỏi, và trưởng thành trong một thế giới không ngừng biến động.