Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý tài sản công và bài học cho Việt Nam

Ở mỗi quốc gia, tài sản công có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất và quản lý xã hội, đồng thời việc quản lý tốt tài sản công luôn được coi là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng quản lý nhà nước của quốc gia đó. Trong bài viết, tác giả phân tích kinh nghiệm của quản lý tài sản công của một số nước trên thế giới là: Nhật Bản, Mỹ, Anh. Trên cơ sở đó, rút ra một số bài học nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công ở Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý tài sản công

1.1. Nhật Bản

Trên cơ sở Hiến pháp được ban hành từ năm 1947, Nhật Bản ban hành Luật Tự chủ địa phương quy định chính quyền địa phương gồm hai cấp (cấp tỉnh và cấp hạt), cấp cơ sở và cấp trung gian giữa cơ sở với trung ương có quyền tự quyết và quản lý các chính sách công cộng theo sáng kiến riêng một cách tương đối tự do.

Đối với lĩnh vực quản lý tài sản công, thể chế tự chủ địa phương cho phép các địa phương tự chủ trong việc quyết định các chính sách quản lý tài sản công và mua sắm công độc lập với Chính phủ. Vì vậy, chính sách quản lý và việc thực hiện mua sắm của các bộ, ngành Trung ương có thể khác với các tỉnh và giữa các tỉnh có thể khác nhau.

Tuy nhiên, tại Nhật Bản, cả chính quyền Trung ương và địa phương đều có xu hướng giảm chế độ mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước mà chuyển sang hình thức thuê tài sản. Điều này thể hiện rõ qua khảo sát của Bộ Tài chính Việt Nam tại Osaka (Nhật Bản), một tỉnh điển hình trong việc thực hiện hiệu quả mô hình quản lý mua sắm, trang bị tài sản theo mô hình tập trung.

Năm 2000, chính quyền tỉnh Osaka đã có cải cách rất cơ bản trong việc mua sắm công với việc thành lập Cục Mua sắm công với nhiệm vụ quản lý về mua sắm công mà chủ yếu là đấu thầu mua sắm công đối với tất cả tài sản, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến chi tiêu công (bao gồm cả lựa chọn nhà đầu tư, xây dựng) cho toàn tỉnh và không thu phí dịch vụ.

Đồng thời, Cục cũng thực hiện một số chức năng kiểm soát như một cơ quan quản lý công sản. Việc thực hiện mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước tại cơ quan thuộc trung ương được tổ chức theo hai hình thức (mua sắm tập trung và mua sắm phân tán).

Mặc dù chưa có quy định bắt buộc mua sắm công tập trung, chính quyền tỉnh Osaka vẫn yêu cầu tất cả hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cơ quan nhà nước đầu bắt buộc mua sắm công tập trung và do Cục Mua sắm công thực hiện, cụ thể như sau:

Đối với tài sản là trụ sở làm việc: Tại Trung ương, việc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện tập trung (Bộ Xây dựng quản lý việc đấu thầu xây dựng), sau khi xây dựng xong thì các bộ, ngành được giao quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa (trường hợp sửa chữa lớn phải thông qua Bộ Xây dựng).

Tại tỉnh Osaka, việc đầu tư xây dựng trụ sở làm việc và quản lý (bao gồm cả cung cấp dịch vụ duy trì, bảo hành, bảo dưỡng) do Cục Mua sắm công thực hiện.

Đối với tài sản là phương tiện vận tải: Tại Trung ương, áp dụng cơ chế mua sắm phân tán trên cơ sở tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước ban hành. Các bộ, ngành trung ương tự đặt hàng mua sắm nhưng nếu không mua đúng quy định thì cơ quan tài chính sẽ không thanh toán.

Tuy nhiên, Chính phủ có xu hướng giảm dần việc trang bị xe công, hạn chế tiêu chuẩn, định mức, không cho các đơn vị mua xe để dần dần chuyển sang cơ chế thuê, thuê mua phương tiện.

Tại tỉnh Osaka, không thực hiện việc trang bị xe công mà thực hiện cơ chế thuê phương tiện phục vụ cho hoạt động của các cơ quan của tỉnh. Việc đấu thầu thuê xe được thực hiện tập trung thông qua Cục Mua sắm công.

Đối với máy móc, thiết bị văn phòng (máy tính, photocopy, điều hòa…): Tại các bộ, ngành trung ương và tỉnh Osaka đều không mua sắm mà thực hiện cơ chế thuê (thuê mua), thời hạn thuê trong 10 năm bao gồm cả dịch vụ bảo trì, bảo hành, bảo dưỡng trong thời gian thuê.

Ở Trung ương, các bộ, ngành tự tổ chức đấu thầu thuê tài sản, còn tại tỉnh Osaka thì việc thuê máy móc, thiết bị văn phòng được thực hiện tập trung qua Cục Mua sắm công.

Đối với tài sản là công cụ, dụng cụ tiêu hao như giấy, bút: Tại các bộ, ngành thuộc trung ương và tại tỉnh Osaka đều áp dụng theo phương thức mua sắm tập trung.

Ở các bộ, ngành việc mua sắm tập trung có thể không bắt buộc nhưng tại tỉnh Osaka thì việc mua sắm tập trung những tài sản này là bắt buộc và thực hiện qua Cục Mua sắm công.

1.2. Mỹ

Từ trước năm 1949, chức năng quản lý tài sản của Chính phủ liên bang Mỹ được thực hiện bởi 4 cơ quan: Cục Công trình, Cục Quản lý kiến trúc công cộng, Bộ Tài chính thuộc Cục Cung ứng liên bang và Văn phòng giải quyết tranh luận hợp đồng.

Sự tồn tại của chế độ quản lý này sau đó bộc lộ nhiều khiếm khuyết như chồng chéo về chức năng, chức trách không rõ ràng, hiệu suất quản lý giảm sút, phát sinh nhiều vấn đề phức tạp không thể giải quyết trên phương diện quản lý việc cung cấp trụ sở văn phòng và thiết bị làm việc.

Để xây dựng chế độ quản lý tài sản chính phủ có hiệu quả kinh tế cao, Ủy ban Hoover (được thành lập bởi Quốc hội Mỹ nhằm giúp Tổng thống Truman thực hiện cuộc cải tổ guồng máy chính quyền lớn nhất trong lịch sử, theo đó tập trung nhiều quyền lực hơn cho Tổng thống) đã tiến hành nghiên cứu làm thế nào để có thể nâng cao trình độ dịch vụ hành chính, đưa ra các kiến nghị cải cách và “Luật phục vụ hành chính là tài sản liên bang” (Federal Property and Administrative Service Act) đã ra đời năm 1949.

Trên cơ sở đó, Cơ quan dịch vụ công (General Service Administration - viết tắt là GSA) trực thuộc Chính phủ Liên bang Mỹ đã chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất 4 cơ quan trên, với chức năng đại diện cho chính phủ liên bang thực hiện tập trung quản lý tài sản của chính phủ liên bang sở hữu, cung ứng hàng hóa, dịch vụ và tài sản cho các cơ quan thuộc Chính phủ Liên bang: văn phòng phẩm, xe ô tô, nhà, trụ sở làm việc, thiết bị làm việc...

Tính đến đầu năm 2015 tài sản của liên bang do GSA đang quản lý lên tới 500 tỷ đô la Mỹ (bao gồm tài sản tại 8.600 trụ sở do Chính phủ liên bang sở hữu hoặc cho thuê, 208.000 phương tiện vận chuyển, 425 địa điểm là di tích lịch sử.

Mặc dù ngân sách hoạt động hàng năm (bao gồm cả ngân sách xây mới, mua sắm và sửa chữa tài sản) của GSA khá lớn (lên tới 24 tỷ đô la Mỹ), nhưng chỉ có khoảng 1,9% ngân sách của Chính phủ liên bang cấp sau khi được Quốc hội phê chuẩn, còn lại là ngân sách thu được từ các sản phẩm dịch vụ được cung cấp cho các cơ quan thuộc Chính phủ liên bang.

Đối với tài sản là nhà, đất: Quyền sở hữu và sửa chữa, duy tu tài sản là nhà, đất của Chính phủ liên bang đều do GSA quản lý. Căn cứ dự toán ngân sách được Quốc hội phê chuẩn và nhu cầu sử dụng tài sản là nhà, đất, các cơ quan thuộc Chính phủ phải ký Hợp đồng sử dụng tài sản nhà, đất với GSA, trong đó xác định thời gian, số tiền thuê, thời hạn trả tiền thuê (tiền thuê bao gồm phí sử dụng, phí quản lý tu sửa và thường thấp hơn so với giá thị trường).

Đối với những động sản khác ngoài nhà đất như ô tô, máy tính, máy photo… dự toán mua sắm, trang bị được thể hiện ở trong dự toán hoạt động của cơ quan sử dụng tài sản và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Việc mua sắm tài sản do GSA thực hiện theo phương thức mua sắm tập trung, giá mua thường thấp hơn so với giá thị trường từ 20% - 30%, bảo đảm tiết kiệm ngân sách mua tài sản. Việc xử lý tài sản nhà, đất và xe cộ cũng do GSA phụ trách, khi xử lý tài sản phải tiến hành đánh giá đối với toàn bộ thời gian sử dụng của tài sản, xác định đã đạt đến dự toán hay chưa và phân tích nguyên nhân.

Những phương tiện xe cộ đến thời hạn thanh lý sẽ được GSA thực hiện ủy thác bán đấu giá, số tiền thu được phải nộp vào ngân quỹ nhà nước.

GSA có trách nhiệm cung cấp dịch vụ về tài sản cho các cơ quan thuộc Chính phủ liên bang Mỹ, nhưng các cơ quan này cũng không bắt buộc phải mua dịch vụ từ phía GSA, mà có thể lựa chọn mua sản phẩm và dịch vụ từ các cơ quan thương mại khác.

Ở đây, trên phương diện dịch vụ mua bán, duy tu, xử lý tài sản, Chính phủ liên bang Mỹ đã đưa ra một cơ chế cạnh tranh thị trường, thúc đẩy GSA cải thiện dịch vụ quản lý tài sản của mình.

1.3. Anh

Chính phủ Anh đã thành lập một Ủy ban để thực hiện rà soát toàn bộ việc chi tiêu của các Bộ, ngành Trung ương (17 bộ, ngành với mức chi tiêu cho việc mua sắm công khoảng 45 tỷ Bảng Anh) và cơ quan của Chính phủ trong việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ.

Việc rà soát này một mặt hướng tới mục tiêu cụ thể trước mắt là cắt giảm chi và tiết kiệm chi ngân sách nhà nước nhưng về lâu dài là hướng tới việc quản lý, sử dụng có hiệu quả hàng hóa, dịch vụ phục vụ các cơ quan công quyền và thay đổi nhận thức của cơ quan, đơn vị mua sắm cũng như tổ chức cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho Chính phủ.

Trong quá trình rà soát, Ủy ban đã phát hiện một số loại hàng hóa, dịch vụ mà các bộ, ngành, cơ quan Chính phủ sử dụng có đặc điểm tương đồng về yêu cầu chất lượng, yếu tố kỹ thuật… nhưng giá mua sắm lại rất khác nhau (có những loại hàng hóa chênh lệch hàng trăm lần) và do nhiều nhà thầu khác nhau cung cấp, thời gian thực hiện hợp đồng bị kéo dài ở các mức độ khác nhau.

Qua rà soát cũng phát hiện, nhiều cơ quan, đơn vị mua sắm hàng hóa, tài sản tràn lan, vượt quá định mức và nhu cầu cần thiết (sau này khi thực hiện mua sắm tập trung đã giảm được khoảng 10% về số lượng mua sắm).

Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi và mục tiêu quản lý nêu trên, Chính phủ Anh đã thành lập cơ quan thực hiện chương trình mua sắm tập trung trực thuộc Chính phủ. Cơ quan Dịch vụ mua sắm công là một cơ quan thuộc Văn phòng Nội các Vương quốc Anh (có mô hình hoạt động tương tự như một đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam) có chức năng nghiên cứu, đề xuất giải pháp và tổ chức thực hiện biện pháp nhằm quản lý, nâng cao hiệu quả mua sắm và tiết kiệm chi phí mua sắm hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho các cơ quan của Chính phủ bằng nguồn ngâ sách nhà nước.

Cơ quan dịch vụ mua sắm Chính phủ của Vương quốc Anh có khoảng 400 nhân viên, trong đó khoảng 80% là các chuyên gia mua sắm tài sản. Ngoài trụ sở chính đặt tại thành phố Liverpool, cơ quan này còn có 4 chi nhánh trải rộng khắp nước Anh.

Danh mục mua sắm tập trung bao gồm những hàng hóa, dịch vụ mà các bộ, ngành, cơ quan Chính phủ có yêu cầu sử dụng cơ bản giống nhau được phân theo lĩnh vực, nhóm hàng hóa, dịch vụ chủ yếu mà các cơ quan thuộc Chính phủ có nhu cầu mua sắm, sử dụng thường xuyên: (i) Năng lượng; (ii) Văn phòng phẩm; (iii) Phương tiện đi lại; (iv) Dịch vụ quản lý công sở và nhà công vụ…

Kết quả thực hiện mua sắm tập trung tại cơ quan dịch vụ mua sắm công ở Anh thể hiện rất rõ hiệu quả của mô hình mua sắm tập trung này.

Chỉ tính riêng trong 2 năm (2012 và 2013), cơ quan dịch vụ mua sắm công đã thực hiện mua sắm tài sản tập trung với giá trị là 24 tỷ bảng Anh, chi phí tiết kiệm được thông qua mua sắm tập trung là 3,6 tỷ bảng Anh (trong đó năm 2012 tiết kiệm được 1,2 tỷ bảng Anh, tỷ lệ tiết kiệm/tổng giá trị mua sắm đạt 11% và năm 2013 tiết kiệm được khoảng 2,4 tỷ bảng Anh, tỉ lệ tiết kiệm/tổng giá trị mua sắm đạt 18%).

2. Bài học cho Việt Nam

Từ việc nghiên cứu một số kinh nghiệm trong quản lý tài sản công nêu trên có thể rút ra một số điểm có thể nghiên cứu, vận dụng trong quản lý tài sản công ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, hệ thống các quy định, chính sách quản lý tài sản công được xây dựng chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quản lý.

Việc quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng cho từng loại tài sản công là yêu cầu cần thiết đầu tiên và được cụ thể hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật ở cấp độ luật và các quy định, quy chế, tạo thành hệ thống pháp luật về quản lý tài sản nhà nước nói chung và quản lý tài sản công tại từng địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng để đảm bảo cho việc quản lý và sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, phân định rõ trách nhiệm, tránh trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan làm chức năng quản lý tài sản công.

Các quy định, chính sách quản lý tài sản công càng đầy đủ, cụ thể, thì việc quản lý tài sản vừa chặt chẽ, vừa thuận lợi, hạn chế được những sai phạm trong cả quản lý và sử dụng; đồng thời, cho phép các cơ quan quản lý tài sản công nắm được thực trạng tài sản cả về số lượng và chất lượng để quyết định được phương thức, mức độ đầu tư, mua sắm tài sản, quy trình quản lý và thực hiện điều tiết tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu một cách hợp lý.

Thứ hai, phương thức mua sắm tài sản phổ biến là qua mua sắm tập trung, đấu thầu rộng rãi.

Phương thức mua sắm tập trung giúp Nhà nước kiểm soát được chất lượng và giá cả hàng hóa, đảm bảo tính đồng bộ về mặt kỹ thuật, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm, tăng tính chuyên nghiệp trong mua sắm tài sản công.

Hình thức đấu thầu mua sắm công được áp dụng đối với tất cả tài sản, hàng hóa, dịch vụ liên quan đến chi tiêu công (bao gồm cả lựa chọn nhà đầu tư, xây dựng) cũng có thể hạn chế được tình trạng các cơ quan vượt quá tiêu chuẩn sử dụng tài sản công, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí trong mua sắm công.

Việc Chính phủ thành lập cơ quan ở trung ương và địa phương có chức năng, nhiệm vụ chuyên quản lý tài sản công và các tổ chức chuyên trách thực hiện việc đầu tư trụ sở làm việc, mua sắm tài sản công để bố trí cho các cơ quan nhà nước thuê sử dụng đã đảm bảo cho việc sử dụng của các cơ quan phù hợp với nhu cầu, hạn chế hiện tượng thiếu hoặc dư thừa tài sản.

Trong mô hình đó, có sự phân cấp mạnh về quản lý tài sản công, cụ thể: quyền ra quyết định thuộc về cấp dưới, cấp trên chỉ xử lý những trường hợp đặc biệt hay có sự bất đồng hoặc tài sản trực tiếp của trung ương quản lý.

Thứ ba, sử dụng cơ chế thị trường để nâng cao hiệu quả quản lý tài sản công.

Quản lý tài sản công ở các quốc gia khảo sát đều đi theo xu hướng giảm chế độ mua sắm, trang bị tài sản cho các cơ quan nhà nước mà chuyển sang hình thức thuê tài sản. Các cơ quan sử dụng tài sản công thực hiện chế độ chi trả tiền thuê tài sản cho cơ quan quản lý tài sản tập trung.

Quản lý tài sản công của các nước được nghiên cứu đều có đặc điểm chung là thành lập cơ quan đại diện cho Chính phủ quản lý tài sản công thuộc sở hữu của Chính phủ. Các cơ quan thuộc Chính phủ sẽ phải trả phí thuê tài sản công cho cơ quan quản lý tài sản với giá thuê thường thấp hơn giá thị trường nhưng sẽ phải cân nhắc, tính toán mức độ tài sản sử dụng để tiết kiệm ngân sách.

Do đó, các cơ quan này phải xem xét các nhu cầu sử dụng tài sản thực tế của mình để thực hành tiết kiệm. Cơ quan quản lý tài sản và sử dụng tài sản thực hiện phương thức giao dịch các tài sản công như giao dịch các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường thông qua các hợp đồng thuê.

Phương thức này thay thế phương thức cung cấp tài sản qua việc cấp phát tài chính để đầu tư, mua sắm, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ tài sản công, thúc đẩy các cơ quan lấy hiệu quả làm định hướng trong phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính, hạn chế cơ quan phân bổ tài sản công vượt quá tiêu chuẩn và lãng phí ngân sách, vừa có thể giảm bớt sự khác biệt về điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công tác giữa các cơ quan.

Một số nước đã sử dụng đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các đơn vị sử dụng trụ sở làm việc tiết kiệm, hiệu quả, thông qua chính sách cho phép bán trụ sở làm việc dôi dư, cho phép hoán đổi trụ sở làm việc; số tiền thu được từ bán, từ chênh lệch do hoán đổi được sử dụng để đầu tư cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc; cho phép đơn vị được sử dụng số tiền chênh lệch khi thuê nhà (giữa giá do cơ quan công sản quy định và giá thuê thực tế), số tiền này đơn vị được sử dụng (không quy định mục đích sử dụng).

Việc bảo trì và thanh lí tài sản ở hầu hết các quốc gia đều hướng đến cơ chế thị trường hóa: Bảo trì tài sản có thể do cơ quan quản lý tài sản sử dụng linh hoạt phương thức nào đó để quản lý một cách có hiệu quả cao nhất.

Cơ quan quản lý tài sản có thể quyết định bộ phận quản lý bảo trì thuộc cơ quan quản lý tài sản hay công ty tư nhân được ủy thác quản lý bảo trì tài sản mà cơ quan khác đang sử dụng.

Một số Chính phủ cũng đưa ra cơ chế thị trường vào khâu xử lí tài sản, cụ thể là trước khi xử lí tài sản, cơ quan sử dụng tài sản hoặc cơ quan chủ quản đều phải báo cáo tình hình sử dụng tài sản lên cơ quan quản lý tài sản, thậm chí có khi phải thẩm định tài sản, xem xét quá trình sử dụng tài sản đã đạt được mục tiêu như mong muốn chưa, cơ quan quản lý tài sản sẽ quyết định phương án xử lí tài sản và doanh nghiệp tư nhân có thể được ủy thác thực hiện những công việc xử lý tài sản.

Ở Việt Nam, cơ chế thị trường cũng đã được Chính phủ quan tâm, sử dụng trong quản lý tài sản công, nhất là trong việc huy động các nguồn lực để đầu tư, phát triển và tăng cường khai thác nguồn lực của tài sản công, đảm bảo hiệu quả quản lý và sử dụng của tài sản công.

Do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta và lĩnh vực quản lý công sản được hình thành muộn so với các nước (hệ thống cơ quan quản lý tài sản công được thành lập được hơn 20 năm), hệ thống cơ chế, chính sách quản lý tài sản công đang được hoàn thiện nên việc sử dụng cơ chế thị trường trong quản lý tài sản công còn hạn chế, chẳng hạn: vấn đề thuê tài sản hiện nay do đơn vị quản lý, sử dụng tài sản tự quyết định căn cứ khả năng ngân sách và tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản, chưa có cơ quan quản lý tập trung tài sản công để xác định tài sản thuê ở phạm vi quốc gia.

Trong triển khai mô hình hợp tác công - tư, với việc khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư và quản lý tài sản công đã góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; đồng thời, sử dụng năng lực, những mô hình quản lý tốt của các doanh nghiệp để khai thác, quản lý tài sản công phục vụ lợi ích công, lợi ích xã hội đã làm tăng hiệu quả quản lý; đồng thời, tiết kiệm chi phí hơn so với việc sử dụng bộ máy quản lý thuộc khu vực công, nhưng mô hình này chưa được triển khai rộng rãi, thậm chí mới dừng ở mức thí điểm ở một số địa phương.

Thứ tư, các cơ quan quản lý tài sản công được tổ chức phù hợp với mô hình quản lý, có năng lực đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ và được phân định trách nhiệm rõ ràng.

Căn cứ cơ chế, chính sách quản lý tài sản công của quốc gia hoặc quy chế quản lý tài sản công của cơ quan, địa phương ban hành, hệ thống các cơ quan quản lý công sản các cấp được hình thành và đều được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy để thực hiện các khâu công việc của quản lý tài sản công.

Trách nhiệm của từng cơ quan, thậm chí từng cá nhân trong bộ máy quản lý cũng được quy định rất cụ thể. Những vấn đề thuộc về quản lý, về sử dụng trực tiếp và vấn đề khác liên quan đến quy trình nghiệp vụ do từng bộ phận quản lý, người đứng đầu bộ phận phải chịu trách nhiệm chính. Nếu người đứng đầu không đảm bảo quản lý đúng sẽ tự động miễn nhiệm hay quy trách nhiệm trước pháp luật trong từng trường hợp.

Thứ năm, hệ thống thông tin, báo cáo, dữ liệu về tài sản công được xây dựng đảm bảo cho việc quản lý có hiệu quả, tăng cường trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong quản lý tài sản công. Quản lý tài sản công ở các quốc gia được khảo sát thực hiện qua một hệ thống kế hoạch và kho dữ liệu về tài sản tương đối đầy đủ.

Hệ thống thông tin quản lý được xây dựng hoàn thiện để quản lý sát sao tài sản công. Một vấn đề quan trọng của quản lý hiệu quả tài sản công là trách nhiệm giải trình và tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm, xác định rõ ràng mục tiêu của các cơ quan nhà nước khi sử dụng tài sản công nhằm phục vụ lợi ích công cộng, gắn với thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cuối năm, mỗi cơ quan phải đưa ra báo cáo hàng năm, nói rõ hiệu quả hoạt động và được đánh giá thông qua điều tra xã hội, kiểm tra, giám sát, đồng thời các cơ quan có thẩm quyền sẽ thông qua thảo luận, điều trần để tiến hành đánh giá, giám sát; toàn bộ quá trình này đều có tính minh bạch rất cao.

Tài liệu tham khảo:

1. Trần Văn Giao (2006), “Góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (148), tr.28-30, 40;

2. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Quản lý tài sản công: Kinh nghiệm thế giới và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, (12), tr.30-33;

3. Ngọc Hương (2006), “Kinh nghiệm quản lý và chống lãng phí tài sản công ở Anh”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, (42), tr.44-45;

4. Lê Ngọc Khoa (2006),“Hoàn thiện, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản nhà nước”, Tạp chí Tài chính, (8), tr. 8.162;

5. Lê Chi Mai (2010), “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước - Các hạn chế và giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (6), tr. 26-30;

6. Chu Xuân Nam (2010), Một số vấn đề về quản lý công sản ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

* Theo Tưởng Quốc Công.

** Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 12 năm 2021.

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/kinh-nghiem-cua-mot-so-quoc-gia-ve-quan-ly-tai-san-cong-va-bai-hoc-cho-viet-nam-345198.html