Kinh nghiệm từ dịch Covid-19 để xây dựng Luật Tình trạng khẩn cấp sát thực tiễn
Đại biểu đề nghị bổ sung quy định cho phép áp dụng những biện pháp như trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp, giúp tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong tổ chức thực hiện các tình huống tương tự giai đoạn dịch Covid -19.
Thảo luận tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV, sáng 26/6, đa số đại biểu Quốc hội tán thành ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật về tình trạng khẩn cấp trong phòng, chống, khắc phục thảm họa, sự cố, cứu nạn, cứu hộ, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.

Quốc hội thảo luận về Luật Tình trạng khẩn cấp ở hội trường. Ảnh Quốc hội.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý vững chắc cho tình trạng khẩn cấp
Đại biểu Tô Văn Tám (đoàn Kon Tum) nhấn mạnh tính cấp thiết của việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự xã hội và quyền con người trong các tình huống đặc biệt như thiên tai, dịch bệnh, khủng bố.
Ông cho rằng: “Luật hóa vấn đề xử lý tình trạng khẩn cấp là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho hoạt động chỉ đạo điều hành và bảo vệ quyền con người trong các tình huống đặc biệt”.
Về thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp, đại biểu Tám kiến nghị chỉnh lý điều 9: trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp, cần trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố và công bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, để bảo đảm tính linh hoạt và hiệu lực thực thi.
Về chấm dứt tình trạng khẩn cấp, ông đề nghị bổ sung quy định "dỡ bỏ ngay các biện pháp đã áp dụng như rào chắn, kiểm soát đi lại" để nhanh chóng ổn định đời sống người dân.
Liên quan đến quyên góp và hỗ trợ, đại biểu Tám nhận định việc phối hợp cứu trợ còn lúng túng, do đó cần bổ sung quy định: “Ngoài chính quyền địa phương, tổ chức, cá nhân còn phải phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở để việc cứu trợ được nhanh chóng, hiệu quả.”
Đại biểu cũng đề nghị làm rõ mâu thuẫn giữa quy định tại điều 5 (về bồi thường khi trưng dụng tài sản) và điều 3 khoản 7 (về không truy cứu trách nhiệm), tránh hiểu nhầm rằng không bị truy cứu bao gồm cả miễn trừ trách nhiệm dân sự.
Đại biểu Lê Xuân Thân (Khánh Hòa) cho rằng việc nâng Pháp lệnh năm 2000 lên thành Luật là bước đi cần thiết, đặc biệt sau những bất cập bộc lộ trong đại dịch Covid-19. Ông góp ý ba nội dung chính:

Đại biểu Tô Văn Tám (đoàn Kon Tum). Ảnh Quốc hội.
Thứ nhất, về điều 7, đại biểu đề nghị làm rõ sự khác biệt giữa “thời hiệu” và “thời hạn” vì hiện dự thảo chỉ quy định về thời hiệu, trong khi “thời hạn” là yếu tố quan trọng trong các thủ tục hành chính. “Cần bổ sung quy định thời hạn của các thủ tục hành chính, vì trong tình trạng khẩn cấp, các mốc thời gian 3 ngày, 5 ngày… sẽ bị gián đoạn”, đại biểu nói.
Thứ hai, ông đề nghị chỉnh sửa điều 9 để bảo đảm tuân thủ đúng Hiến pháp. Cụ thể, “Hiến pháp đã quy định rõ thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước có quyền công bố mà không cần chờ đề nghị của cấp dưới,” ông nhấn mạnh. Do đó, cần phân tách rõ 2 khoản: thẩm quyền, trình tự của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và vai trò độc lập của Chủ tịch nước trong trường hợp Quốc hội không thể họp.
Thứ ba, ông đề nghị cập nhật dự thảo phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp từ 1/7/2025, như bỏ cụm từ “thị trấn” và điều chỉnh các điều khoản liên quan đến cấp huyện.
Đảm bảo hiệu quả thực thi và chính sách nhân văn
Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) đồng tình với sự cần thiết của Luật Tình trạng khẩn cấp, song nhấn mạnh cần “quy định cụ thể để không bị lợi dụng xâm phạm quyền công dân”.
Về đội tuần tra đặc biệt, ông ủng hộ thành lập lực lượng này trong tình huống khẩn cấp, nhưng cảnh báo: “Quyền khám xét, bắt giữ cần được quy định rõ, tránh bị lợi dụng.” Ông cho rằng lực lượng này phải gồm công an, quân đội và dân quân tự vệ, không nên để dân quân tự thi hành các biện pháp cưỡng chế một cách độc lập.
Đại biểu Hòa cũng lưu ý đến các chính sách hậu khẩn cấp, nhất là tài chính: “Tới nay, việc giải ngân và hỗ trợ hậu Covid-19 vẫn còn tồn đọng, kéo dài gây bức xúc. Luật cần có quy định rõ ràng để xử lý dứt điểm hậu quả sau tình trạng khẩn cấp”.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp). Ảnh Quốc hội.
Đại biểu Dương Khắc Mai (đoàn Đắk Nông) tán thành việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp và cho rằng đây là “nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến khó lường”.
Ông đề xuất luật cần bổ sung quy định cho phép Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh áp dụng một số biện pháp khẩn cấp (như giãn cách, cách ly, phong tỏa) mà không cần ban bố tình trạng khẩn cấp, như đã thực hiện trong đại dịch Covid -19.
Về biện pháp tịch thu, phong tỏa tài sản, ông lưu ý: “Cần làm rõ trường hợp nào là tài sản hợp pháp nhưng vẫn bị phong tỏa do liên quan đến an ninh quốc gia,” đồng thời kiến nghị giao Chính phủ quy định riêng về trình tự, thủ tục, thay vì áp dụng chung theo luật hiện hành.
Ông cũng cảnh báo nguy cơ chồng lấn các biện pháp áp dụng giữa các loại tình huống khẩn cấp khác nhau (thiên tai, dịch bệnh…), và đề nghị soạn thảo luật cần rà soát để tránh giao thoa, mâu thuẫn giữa các điều luật.
“Một số chính sách như cải cách thủ tục hành chính, đa dạng hóa thị trường hay xuất khẩu… là dài hạn, không nên đưa vào nhóm chính sách áp dụng trong tình trạng khẩn cấp,” ông nói. Ông đề nghị chỉ giữ lại các chính sách thực sự cấp thiết, và cần quy định rõ thẩm quyền áp dụng (Quốc hội, Chính phủ, Bộ ngành...), đại biểu nói.
Cuối cùng, ông nhấn mạnh: “Chúng ta cần rút kinh nghiệm từ thực tiễn phòng, chống Covid-19 để xây dựng Luật sát thực tiễn, hiệu quả và nhân văn hơn”.
Nâng Pháp lệnh thành Luật để đáp ứng yêu cầu xử lý tình huống khẩn cấp
Phát biểu tại phiên họp Quốc hội, Bộ trưởng Phan Văn Giang khẳng định, Bộ Quốc phòng trân trọng tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp bảo đảm tính khả thi và hiệu lực thực tiễn trong bối cảnh các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng.
Trên cơ sở là cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Quốc phòng ghi nhận nhiều ý kiến sâu sắc, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội và cam kết tiếp thu tối đa để hoàn chỉnh dự thảo luật.
Bộ trưởng nhấn mạnh rằng khi luật được ban hành, việc tổ chức triển khai sẽ chuẩn mực, bài bản và xử lý hiệu quả các tình huống khó lường như thiên tai, bão lũ, dịch bệnh, sự cố an toàn môi trường, nhằm phòng ngừa và hạn chế tối đa hậu quả gây thiệt hại cho nhân dân và xã hội.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang. Ảnh Quốc hội.
Về việc phân công thẩm quyền trong các tình huống đặc biệt khi không thể triệu tập kịp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng tiếp thu ý kiến của đại biểu Tô Văn Tám và cho biết sẽ quy định rõ trường hợp chuyển quyền cho Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm không để xảy ra khoảng trống pháp lý. Đồng thời, sẽ cụ thể hóa nguyên tắc phối hợp giữa chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội để huy động hiệu quả các lực lượng trong tình huống khẩn cấp.
Với ý kiến liên quan đến trách nhiệm pháp lý khi gây thiệt hại trong quá trình thực hiện mệnh lệnh ứng phó khẩn cấp, Bộ trưởng nêu rõ: nếu người thực hiện không có vụ lợi, việc miễn truy cứu trách nhiệm cần được quy định rõ ràng, nhất quán, tránh tình trạng miễn một phần hoặc áp dụng không thống nhất giữa trách nhiệm hình sự và hành chính.
Bộ trưởng Phan Văn Giang ghi nhận ý kiến của đại biểu Phạm Văn Hòa về quyền khám xét và bắt giữ trong tình huống khẩn cấp. Theo đó, việc tổ chức đội tuần tra đặc biệt là cần thiết, và sẽ được quy định rõ hơn tại nghị định nếu chưa thể hiện đầy đủ trong luật. Ông cũng cho rằng dân quân tự vệ cần từng bước được đào tạo bài bản hơn để có thể đảm đương nhiệm vụ trong tình huống khẩn cấp. Luật phải có tầm nhìn dài hạn, không nên chỉ bó hẹp theo điều kiện hiện tại.
Về tài sản trưng dụng, Bộ trưởng tiếp thu ý kiến của các đại biểu, trong đó có đại biểu Lê Xuân Thân và Dương Khắc Mai. Ông cho rằng việc xác định tài sản hợp pháp hay không hợp pháp trong tình trạng khẩn cấp là rất khó thực hiện ngay, do đó cần quy định nguyên tắc và cơ chế xử lý phù hợp sau khi tình huống kết thúc. Quan trọng nhất là bảo đảm tính minh bạch và quyền lợi hợp pháp của người dân khi nhà nước trưng dụng tài sản.
Liên quan đến chính sách hỗ trợ, Bộ trưởng khẳng định cần rà soát lại toàn bộ để bảo đảm tính cấp thiết, phù hợp với tình hình thực tiễn. Ông đồng tình với ý kiến cho rằng không thể chỉ sử dụng ngân sách nhà nước mà cần huy động các nguồn lực hợp pháp khác, với cơ chế điều phối linh hoạt giữa các ngành. Ví dụ, nếu thiếu ngân sách y tế trong tình huống khẩn cấp về môi trường thì cũng cần có cơ chế chuyển đổi hợp lý.
Kết thúc phần phát biểu, Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh: “Nhiều ý kiến đã được tiếp thu để hoàn chỉnh văn bản luật, bảo đảm tổ chức thực hiện hiệu quả trong thực tiễn”.
Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát cùng các cơ quan hữu quan, bảo đảm dự thảo luật đạt chất lượng cao nhất khi trình Quốc hội thông qua.