Kinh tế trang trại: Động lực phát triển bền vững khu vực nông thôn

Phát triển kinh tế trang trại theo hướng xanh – tuần hoàn, gắn sản xuất với dịch vụ và du lịch, nâng giá trị nông sản, tạo sinh kế bền vững.

Ước tính tỉ lệ doanh thu của khu vực trang trại đóng góp 9,3% doanh thu, 10,3% GDP, 17,7% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành nông nghiệp. Ảnh minh họa

Số liệu hiện hành cho thấy quy mô và vai trò của khu vực này ngày càng rõ nét: cả nước có gần 28 nghìn trang trại, giá trị sản xuất bình quân khoảng 4 tỷ đồng mỗi trang trại mỗi năm, diện tích bình quân 3,52 ha, sử dụng trung bình gần bốn lao động. Kinh tế trang trại ước đóng góp khoảng một phần mười giá trị gia tăng ngành nông nghiệp, gần một phần năm kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản và gần một phần mười doanh thu toàn ngành, cho thấy vị trí đáng kể trong chuỗi giá trị hiện nay.

Nhìn vào sản xuất, trồng trọt đã phổ biến nhà kính, nhà lưới để kiểm soát vi khí hậu; tưới nhỏ giọt, cảm biến dinh dưỡng và nhật ký điện tử giúp tiết kiệm vật tư, truy xuất nguồn gốc. Chăn nuôi áp dụng chuồng lạnh, an toàn sinh học nhiều lớp, tự động hóa cho ăn và làm mát để kiểm soát dịch bệnh, ổn định năng suất, nâng phúc lợi động vật. Thủy sản phát triển các mô hình tuần hoàn nước, công nghệ biofloc, quan trắc chất lượng nước theo thời gian thực. Khi sản xuất được chuẩn hóa theo VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ và truy xuất điện tử, nông sản đi thẳng vào hệ thống bán lẻ hiện đại, đáp ứng kiểm dịch, giảm tình trạng “được mùa mất giá” nhờ hợp đồng ổn định và kế hoạch cung ứng dài hạn.

Cơ cấu cho thấy chăn nuôi chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống trang trại, với hơn mười hai nghìn cơ sở, tương đương khoảng sáu phần mười tổng số trang trại nông nghiệp theo chuẩn hiện hành. Nhiều địa phương đã phê duyệt các dự án liên kết theo chuỗi giá trị, từ con giống, thức ăn, quy trình an toàn sinh học đến bao tiêu sản phẩm, qua đó hạ chi phí, giảm rủi ro và cải thiện chất lượng. Bức tranh chung của nông nghiệp những năm gần đây ghi nhận xuất khẩu nông lâm thủy sản vượt mốc sáu chục tỷ đô la Mỹ, xuất siêu ở mức cao, trong đó giá trị chăn nuôi tăng vững, củng cố vai trò của các trang trại quy mô trung và lớn trong bảo đảm nguồn cung, ổn định giá và chất lượng.

Song hành với sản xuất là sự nổi lên của dịch vụ trải nghiệm nông nghiệp và du lịch nông thôn. Nhiều trang trại tổ chức tour “một ngày làm nông dân”, lễ hội mùa hoa, mùa trái, lớp học thực địa cho học sinh, không gian ẩm thực bản địa và farmstay phù hợp quy mô. Những hoạt động này tạo nguồn thu bổ sung trải đều theo mùa, giảm phụ thuộc vào một vụ thu hoạch; đồng thời là “cửa sổ” để người tiêu dùng quan sát quy trình canh tác sạch, tăng niềm tin với thương hiệu địa phương. Kết hợp sản xuất và dịch vụ kéo theo mạng lưới nghề mới như hướng dẫn viên, hậu cần sự kiện, thiết kế trải nghiệm, truyền thông số, làm bức tranh kinh tế nông thôn thêm đa dạng, năng động và có sức hút với lao động trẻ.

Ở khía cạnh môi trường, kinh tế trang trại là nền tảng thuận lợi cho nông nghiệp tuần hoàn và phát thải thấp. Phụ phẩm trồng trọt được ủ thành phân hữu cơ hoặc chế biến thành viên nén sinh khối; chất thải chăn nuôi đưa vào hầm khí sinh học, tách rắn – lỏng để quay lại đồng ruộng; nước tưới được tái tuần hoàn; điện mặt trời lắp trên mái nhà kính, mái chuồng góp phần giảm chi phí năng lượng. Nhiều trang trại phục hồi giống bản địa, tăng cây che phủ, luân canh – xen canh để cải thiện hữu cơ đất, giữ ẩm, giảm xói mòn. Khi các thực hành này gắn với đo lường, báo cáo, thẩm tra phát thải, trang trại có thể từng bước tham gia cơ chế tín chỉ carbon khi hành lang pháp lý hoàn thiện, chuyển lợi ích môi trường thành giá trị kinh tế cụ thể.

Dẫu vậy, các nút thắt vẫn hiện hữu và cần tháo gỡ đồng bộ. Vướng mắc đất đai là rào cản lớn: quy mô manh mún, thời hạn sử dụng và thủ tục tích tụ chưa linh hoạt khiến nhiều chủ trang trại e ngại đầu tư hạ tầng dài hạn cho nước, điện, xử lý chất thải, năng lượng tái tạo hay chuyển đổi số.

Bài toán vốn dai dẳng khi mô hình trang trại cần chi phí ban đầu lớn cho nhà kính, giống chất lượng, thiết bị bảo quản sau thu hoạch, trong khi tài sản thế chấp hạn chế và thời gian ân hạn chưa sát chu kỳ cây – con; tín dụng xanh chuyên biệt còn khiêm tốn. Ở chiều thị trường, yêu cầu tiêu chuẩn, kiểm dịch, truy xuất ngày càng khắt khe; chi phí kiểm nghiệm, tem truy xuất, bao bì sinh học là gánh nặng cho trang trại nhỏ.

Hạ tầng logistics lạnh chưa phủ đều, thất thoát sau thu hoạch cao làm giảm lợi thế “tươi – sạch”. Năng lực chế biến sâu còn mỏng, khiến nhiều sản phẩm dừng ở sơ chế, biên lợi nhuận thấp. Về chuyển đổi số, không ít đơn vị mới dừng ở bán hàng trực tuyến, trong khi quản trị dữ liệu mùa vụ, thời tiết, chi phí – lợi nhuận theo lô hàng chưa được áp dụng bài bản để ra quyết định kịp thời.

Để kinh tế trang trại thực sự trở thành động lực của kinh tế xanh nông thôn, cần một gói giải pháp cùng lúc tác động vào thể chế, tài chính, hạ tầng, thị trường và năng lực quản trị.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh tại cuộc họp nghe báo cáo nội dung dự thảo Nghị định về kinh tế trang trại chiều 24/10, các mô hình trang trại hiện nay rất phong phú, phản ánh tính chủ động của nông dân và doanh nghiệp. Nếu Nhà nước có chính sách hỗ trợ phù hợp, các mô hình kinh tế trang trại sẽ lan tỏa thành phong trào toàn quốc, góp phần thay đổi căn bản phương thức sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh và đưa nông nghiệp Việt Nam lên vị thế mới.

Ông Nguyễn Trí Ngọc nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũ) kiến nghị tổng hợp và kết nối các chính sách hiện hành về đất đai, vốn tín dụng, khoa học-công nghệ, khuyến nông, đào tạo nhân lực..., hình thành hành lang pháp lý đồng bộ và toàn diện hơn cho phát triển kinh tế trang trại.

Về thể chế đất đai, nên đa dạng hóa hình thức thuê và góp quyền sử dụng đất dài hạn với hợp đồng mẫu rõ ràng, công khai dữ liệu thửa đất để giảm chi phí giao dịch, qua đó khuyến khích đầu tư trung và dài hạn.

Về tài chính, cần các gói tín dụng ưu đãi “đo ni đóng giày” cho nông nghiệp với thời gian ân hạn phù hợp chu kỳ sản xuất, chấp nhận tài sản hình thành từ vốn vay, mở rộng bảo hiểm nông nghiệp để chia sẻ rủi ro thiên tai, dịch bệnh, biến động giá. Về hạ tầng thị trường, nên hình thành cụm logistics nông sản gần vùng nguyên liệu, gồm kho lạnh, cơ sở sơ chế – phân loại, chợ đầu mối hiện đại và sàn đấu giá; truy xuất nguồn gốc số tích hợp ngay từ ruộng, chuồng, ao để giảm chi phí “vá” ở cuối chuỗi, đồng thời đáp ứng yêu cầu nhà bán lẻ và đối tác xuất khẩu.

Chuyển đổi số phải đi vào điều hành: cảm biến thời tiết, đất, nước; bản đồ số ruộng vườn; phần mềm kế toán nông nghiệp; bảng điều khiển chi phí, năng suất, thất thoát; dự báo mùa vụ để tối ưu giống, lịch gieo, tưới, bón. Du lịch nông nghiệp cần được định vị là dịch vụ cộng giá trị cho sản xuất, tránh lệch trọng tâm; mỗi trang trại chọn một lõi trải nghiệm khác biệt gắn với tài nguyên bản địa, đặt ngưỡng sức chứa theo ngày, minh bạch quy trình quản lý rác, nước thải, tiếng ồn, và đào tạo đội ngũ về kể chuyện, an toàn, sơ cứu.

Khi chuỗi giá trị được kết nối, dịch vụ và du lịch được thiết kế như phần mở rộng của nông sản, còn môi trường được coi là tài sản cần đầu tư, kinh tế trang trại sẽ phát huy trọn vai trò động lực cho kinh tế xanh nông thôn: tăng giá trị nông sản, tạo sinh kế ổn định, nâng chất lượng sống và gia tăng sức chống chịu trước biến động thị trường lẫn khí hậu. Đây là con đường khả thi để nông nghiệp Việt Nam tiến tới hiện đại, tuần hoàn và bền vững.

Minh Thành

Nguồn Kinh tế Môi trường: https://kinhtemoitruong.vn/kinh-te-trang-trai-dong-luc-phat-trien-ben-vung-khu-vuc-nong-thon-102947.html