Kỳ 3: Chiến dịch Huế - Đà Nẵng: Tạo thế trận mới để giải phóng miền Nam

Từ chiến thắng Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm: 'Tiêu diệt quân đoàn 1 địch, không cho chúng rút về Sài Gòn, để cùng với thắng lợi của Tây Nguyên tạo nên chuyển biến lớn về so sánh lực lượng chiến lược có lợi cho ta, tạo điều kiện giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam'. Thực hiện quyết tâm trên, ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Huế - Đà Nẵng với mật danh 'Mặt trận 475'.

Quyết tâm cao độ cho việc phá tan “cánh cửa sắt” phòng thủ của địch

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, Mỹ - ngụy xác định chiến trường Trị Thiên - Huế, Quảng Nam - Ðà Nẵng là “cánh cửa sắt” phòng thủ của toàn chiến trường miền Nam, một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng. Chính vì lẽ đó, chúng đã bố trí trên chiến trường này tới sáu sư đoàn bộ binh “anh cả”, trong đó có hai sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị cơ động chiến lược (sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ); bốn liên đoàn biệt động quân, năm thiết đoàn xe tăng thiết giáp, với 449 xe tăng; tám lữ đoàn pháo binh cơ giới với 418 pháo hạng nặng; sáu hải đoàn, giang đoàn (tương đương cấp trung đoàn); một sư đoàn không quân với hơn 300 máy bay chiến đấu các loại.

Lực lượng quân số hơn 11 vạn tên, chưa tính gần hai vạn lực lượng bảo an dân vệ. Trong đó, lực lượng địch được bố trí tập trung trên hai địa bàn chiến lược là chung quanh thành phố Huế (Sở Chỉ huy tiền phương quân đoàn 1 ngụy) và thành phố Ðà Nẵng, căn cứ quân sự lớn nhất miền Trung và lớn thứ hai miền Nam (sau Sài Gòn), là nơi có hệ thống kho tàng dự trữ chiến lược của địch. Sư đoàn không quân ở sân bay Đà Nẵng có thể trực tiếp chi viện 40-60 lần chiếc/ngày.

Sau thất bại thảm hại từ chiến dịch Tây Nguyên, Tổng thống Ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu càng vội vã cho kế hoạch phòng thủ co cụm chiến lược ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung, trong đó lấy Trị Thiên - Huế làm một trong những trung tâm phòng ngự cố thủ, án ngữ ở phía Bắc hệ thống, bố trí lực lượng bảo vệ cho trung tâm phòng ngự Quảng Nam - Đà Nẵng.

 Nhân dân Đà Nẵng đón mừng quân Giải phóng tiến vào thành phố ngày 29/3/1975. Ảnh tư liệu

Nhân dân Đà Nẵng đón mừng quân Giải phóng tiến vào thành phố ngày 29/3/1975. Ảnh tư liệu

Về phía ta, tháng 3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng lấy tên là “Mặt trận 475” quyết tâm phá thế co cụm, phòng thủ của địch. Chiến trường được phân thành hai khu vực: Trị Thiên - Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng, trong đó mục tiêu chủ yếu là Huế - Đà Nẵng. Yêu cầu chính là phải cắt cho được Huế và Đà Nẵng, không cho địch chạy ra phía biển, ngăn chặn tiêu diệt không cho chúng co cụm lại với nhau.

20 ngày đập tan chiến lược “Phòng ngự co cụm” của địch tại Huế

Ngày 5/3/1975, trong lúc Chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra, thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2 đã mở Chiến dịch Trị - Thiên - Huế nhằm bao vây, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự thuộc Quân đoàn 1 - Quân khu 1 Ngụy ở Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế.

Từ ngày 5-7/3, các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên bắt đầu đánh nhỏ trên các trục đường giao thông, thực hiện nghi binh rộng rãi và triển khai lực lượng theo kế hoạch đã định. Ngày 8/3/1975, Sư đoàn 324 bắt đầu tiến công căn cứ Mỏ Tàu, các điểm cao ở Tây Nam Huế; từ ngày 13 đến 15/3/1975, Quân khu Trị - Thiên mở một loạt trận đánh vào các cứ điểm, điểm cao ở phía Tây Huế.

Đêm 18 rạng sáng 19/3, các lực lượng vũ trang Quảng Trị bất ngờ tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ của địch, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị trong ngày 19/3. 5 giờ 40 phút ngày 21/3, giữa lúc đài Sài Gòn đang phát lời kêu gọi của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu “giữ Huế bằng mọi giá,”, tiếng súng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta giải phóng Thừa Thiên - Huế đợt hai đồng loạt khai hỏa. Đến ngày 24/3, bộ đội ta bao vây chặt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của địch ở Huế và giải phóng hoàn toàn thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam).

Toàn bộ sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn vứt bỏ vũ khí, chạy vào Đà Nẵng. Sáng 25/3/1975, Ngụy quyền Sài Gòn công bố Huế “thất thủ”. Vào 6 giờ 30 phút ngày 26/3/1975, quân giải phóng chính thức kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam dài 12 m, rộng 8 m lên đỉnh Cột cờ, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên - Huế hoàn toàn giải phóng, làm thất bại kế hoạch “Phòng ngự co cụm chiến lược” của địch ở các tỉnh duyên hải miền Trung, tạo thế uy hiếp từ hướng Bắc đối với quân địch ở Đà Nẵng.

3 ngày giải phóng Đà Nẵng

Ngày 24/3/1975, Bộ Tổng Tư lệnh nhận định: “Sau khi mất Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, địch muốn giữ Đà Nẵng cũng không được”. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch giải phóng Đà Nẵng với tinh thần “kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất và với lực lượng có thể chuyển tới sớm nhất”.

 Các lực lượng vũ trang giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975. Ảnh tư liệu

Các lực lượng vũ trang giải phóng tiến vào cửa Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975. Ảnh tư liệu

Về phía địch, dù đang hoàn toàn bị cô lập, Nguyễn Văn Thiệu vẫn một mực tuyên bố “tử thủ” Đà Nẵng bằng mọi giá. Không những thế, Nguyễn Văn Thiệu cùng tướng tá của quân đội Mỹ và Sài Gòn vẫn cho rằng sau giải phóng Huế, muốn tiến công vào Đà Nẵng, đối phương phải có thời gian ít nhất là một tháng để chuẩn bị, do vậy chúng chủ trương “tử thủ Đà Nẵng và di tản dần nhằm bảo toàn lực lượng”.

Ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chính thức mở Chiến dịch Đà Nẵng, thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà - Mặt trận 475 do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy, tập trung lực lượng tiến công vào Đà Nẵng. 5 giờ 30 phút ngày 28/3, pháo binh ta bắn phá, chế áp các mục tiêu trong thành phố, hỗ trợ cho các lực lượng trên các hướng tiến công vào Đà Nẵng. 7 giờ ngày 29/3, quân ta từ 4 hướng đồng loạt tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, kết hợp với thọc sâu và nổi dậy, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố. Đến 15 giờ ngày 29/3, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ căn cứ liên hợp Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà; 17 giờ giải phóng hoàn toàn thành phố.

Như vậy, chỉ trong 32 giờ, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ quân sự liên hợp mạnh vào bậc nhất của địch. Thành phố lớn thứ hai ở miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng kết thúc thắng lợi.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng - trận then chốt thứ hai đại thắng đã làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống phòng ngự chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu ở miền Trung, trực tiếp đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, không để cho lực lượng đối phương rút về tăng cường phòng phủ quanh Sài Gòn. Thắng lợi này cùng với thắng lợi Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản so sánh tương quan lực lượng giữa quân ta và quân địch trên chiến trường, mở ra bước nhảy vọt trong cục diện chiến tranh, tạo ra thời cơ trực tiếp để trên cơ sở đó Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến, chiến lược cuối cùng giành toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Hà Anh

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/ky-3-chien-dich-hue--da-nang-tao-the-tran-moi-de-giai-phong-mien-nam-post338285.html