Kỳ 4: Bản lề thay đổi cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Bình

Dòng khí được khai thác từ GK 61 đã giúp Thái Bình từ một tỉnh thuần nông hình thành được Khu công nghiệp Đông Cơ - Tiền Hải. Trong suốt một thời gian dài, đây là khu công nghiệp động lực của tỉnh Thái Bình. Sự xuất hiện của ngành công nghiệp sản xuất đã thúc đẩy hạ tầng và dịch vụ thương mại của tỉnh phát triển. Có thể nói, dòng khí từ GK 61 chính là bản lề thay đổi cơ cấu kinh tế, mở ra cánh cửa công nghiệp hóa đối với tỉnh Thái Bình.

Đổi thay của một vùng đất

Khi Liên đoàn 36 (Đoàn Thăm dò dầu lửa 36, thuộc Tổng cục Địa chất) thực hiện việc khoan tìm kiếm dầu khí ở nhiều nơi trong tỉnh Thái Bình cũng là lúc nhiều người dân trong tỉnh bước vào làm “người Dầu khí”, làm việc trong Liên đoàn 36. Và chính họ là những người cảm nhận rõ nét nhất sự đổi thay của quê hương mình từ khi tìm ra nguồn khí. Ông Vũ Ngọc Hoan là người Tiền Hải gốc, nhiều đời gia đình ông sinh sống ở vùng đất này. Khi Liên đoàn 36 về đóng chân tại đây, ông trở thành công nhân lắp ráp các giàn khoan dầu khí ở Tiền Hải. Ông cho biết, trong đời công nhân của mình, ông lắp tất cả 10 giàn khoan, từ giàn cao 40m đến giàn cao nhất là 61m. “Cái giàn khoan cao 61m ấy là của giếng khoan 106, đứng khắp vùng Tiền Hải đều nhìn thấy”, ông Hoan nói.

Việc phát hiện khí tại GK 61 đã giúp tỉnh Thái Bình dần thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Việc phát hiện khí tại GK 61 đã giúp tỉnh Thái Bình dần thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Khi chúng tôi hỏi ông Hoan “cảm giác đầu tiên của người dân trong vùng khi biết tìm thấy khí ở Tiền Hải thế nào?”, ông bảo: “Tự hào, tự hào lắm và vui mừng vì biết có dầu, có khí thì cả vùng sẽ thay đổi”. Rồi ông kể về sự đổi thay đầu tiên của vùng đất Tiền Hải quê mình khi tìm thấy khí, đó là điện. Trước đây cũng có điện, nhưng nhà nào có đám cưới làm đơn xin xã đóng điện thì cả làng mới được dùng điện thoải mái. Rồi sau đó khu công nghiệp (KCN) được hình thành, con em trong vùng có công ăn việc làm, cuộc sống khá hơn rất nhiều. “Trước đây, con cá, lá rau bà con cũng chỉ trao đổi lẫn nhau, không phát triển được. Từ khi có công nhân về nhiều, tất cả mọi thứ đều bán được, thương mại phát triển, thế là kinh tế tự tốt lên”, ông Hoan nhớ lại.

Ông Ngô Văn Kha (nguyên Phó Giám đốc Công ty Dầu khí Sông Hồng) thì có cách nhìn nhận chi tiết và logic hơn đúng với một người làm kỹ thuật. Ông bảo, khi có các công trình dầu khí, cái được đầu tiên cho địa phương là giao thông. Bởi lẽ vận chuyển các thiết bị siêu trường, siêu trọng cần phải làm đường giao thông. Có đường như có mạch máu kinh tế, không khí sinh động vui tươi, người dân hy vọng có gì đó đổi mới. Ông Kha phân tích tiếp, khi phát hiện ra khí thì một loạt các doanh nghiệp được thành lập. Thời đó, giá trị gia tăng ở KCN Tiền Hải là cao nhất tỉnh Thái Bình. Khi có khí, mọi loại hình công nghiệp đều phát triển mạnh, ngay cả với các doanh nghiệp không cần đến khí và thu hút được nhiều lao động đến KCN Đông Cơ - Tiền Hải.

Khởi đầu cho một mối lương duyên

GK 61 đã giúp tỉnh Thái Bình hình thành được KCN động lực đầu tiên trong tỉnh. Các doanh nghiệp tại KCN này sản xuất nhiều sản phẩm: Gạch ốp lát ceramic, granit, sứ vệ sinh, sứ mỹ nghệ, sứ dân dụng, sứ cách điện, thủy tinh dân dụng, thủy tinh y tế, thủy tinh màu cao cấp, xi măng trắng...., trong đó một số sản phẩm sứ vệ sinh, gạch ốp lát đã xuất khẩu sang châu Âu, Mỹ…; thu hút hơn 6.000 lao động; đóng góp lớn vào chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình.

Tuy có vai trò khai mở cho nguồn năng lượng phục vụ KCN Tiền Hải, nhưng mỏ khí Tiền Hải C chỉ là một mỏ khí nhỏ, trữ lượng tại chỗ chỉ hơn 1 tỷ m3, trữ lượng có thể khai thác khoảng 700-850 triệu m3. Sau 30 năm khai thác đưa vào sử dụng, trữ lượng khí của mỏ Tiền Hải C đã cạn kiệt.

Không có khí, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sành sứ, thủy tinh tại KCN Tiền Hải phải đối mặt với khó khăn rất lớn. Đó là sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn khí mỏ, có thể ngưng trệ sản xuất, công nghệ sản xuất không còn phù hợp với nguồn nguyên liệu mới nên phải cải tiến dẫn đến tốn kém chi phí, chất lượng sản phẩm không cao, khó cạnh tranh trên thị trường, giá trị sản xuất công nghiệp không cao, một số doanh nghiệp có thể phải dừng sản xuất. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp phải dần chuyển đổi sang sử dụng các dạng nhiên liệu khác thay thế khí mỏ như dầu (DO, FO), LPG, khí đốt chế biến từ than (lò khí hóa than)…

Để giải quyết tình trạng đó, Petrovietnam với sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương đã triển khai đầu tư thành công 2 dự án nhằm phát triển ngành công nghiệp sử dụng khí mỏ tại tỉnh Thái Bình. Đó là Dự án “Hệ thống thu gom và phân phối khí mỏ Hàm Rồng - Thái Bình Lô 102&106” do Tổng công ty Khí Việt Nam - CTCP (PV GAS) đầu tư với tổng vốn 1.937 tỷ đồng và Dự án “Hệ thống phân phối khí thấp áp cho KCN Tiền Hải”, tổng vốn đầu tư 1.321 tỷ đồng do Công ty CP Phân phối khí thấp áp Dầu khí Việt Nam đầu tư. Sau thời gian triển khai, từ tháng 8/2015, các dự án đã chính thức đi vào hoạt động, giúp Thái Bình phát triển mạnh công nghiệp sử dụng khí mỏ. Hiện nay, 2 dự án này đang cung cấp khí mỏ cho nhiều doanh nghiệp trong KCN Tiền Hải.

Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 được xây dựng tại xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 được xây dựng tại xã Mỹ Lộc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Sau mối lương duyên về khí, Petrovietnam đã tiếp tục đầu tư Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sau khoảng thời gian xây dựng, Nhiệt điện Thái Bình 2 đã chính thức hòa lưới điện vào tháng 4/2023. Tính đến 17h05 ngày 25/2/2025, Nhiệt điện Thái Bình 2 chính thức chạm mốc sản lượng 10 tỷ kWh. Dự án cũng tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho cộng đồng địa phương. Hiện nay, nhà có khoảng 400 cán bộ, kỹ sư và công nhân quản lý và vận hành, bảo đảm cho 2 tổ máy hoạt động ổn định và cung cấp nguồn điện cho lưới điện quốc gia, đặc biệt trong thời gian nắng nóng và thiếu hụt điện hiện nay; tạo ra thu nhập và cơ hội phát triển nghề nghiệp cho người dân địa phương.

Dự án Nhiệt điện Thái Bình 2 không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện cho quốc gia mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã hội của khu vực. Điều này tạo ra cơ hội mới cho Thái Bình trong việc thu hút đầu tư và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh.

Trong suốt 50 năm kể từ thời điểm phát hiện dòng khí đầu tiên tại GK 61, mối lương duyên giữa ngành Dầu khí và tỉnh Thái Bình ngày càng bền chặt. Và ngành Dầu khí đã đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh Thái Bình.

Thanh Hiếu

Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/ky-4-ban-le-thay-doi-co-cau-kinh-te-tinh-thai-binh-725269.html