Kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 36 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân:Quân đội Nhân dân Việt Nam - Từ đội quân cách mạng đến trụ cột bảo vệ Tổ quốc
Ngày 22-12-1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xã Tam Kim, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam - được thành lập.
Từ một lực lượng cách mạng non trẻ, được tổ chức và rèn luyện trong gian khổ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng trưởng thành qua các cuộc kháng chiến, lập nhiều chiến công oanh liệt, trở thành lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền, hòa bình và đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước.

Lực lượng Quân đội tích cực tham gia công tác phòng chống lụt bão, cứu hộ cứu nạn
Bước ngoặt của cách mạng
Trong bối cảnh đất nước chìm trong ách áp bức của thực dân, phát xít, phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam đầu thập niên 1940 đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có một lực lượng vũ trang thống nhất, có tổ chức, có đường lối chính trị đúng đắn để làm nòng cốt cho khởi nghĩa vũ trang và giành chính quyền. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập với 34 chiến sĩ, vũ khí còn thô sơ, quân số ít ỏi nhưng mang trong mình lý tưởng cách mạng cao cả và niềm tin sắt son vào con đường giải phóng dân tộc. Ngay từ khi ra đời, đội quân non trẻ ấy đã mang bản chất giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Điều đặc biệt, Quân đội nhân dân Việt Nam không phải là một đội quân thuần túy quân sự, mà trước hết là một lực lượng chính trị - quân sự, sinh ra từ phong trào quần chúng, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân”, coi đó là nguyên tắc bất di bất dịch, là cội nguồn sức mạnh của quân đội cách mạng.
Ngay sau ngày thành lập, với lối đánh mưu trí, táo bạo, bất ngờ, xuất thần, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã tiêu diệt đồn Phai Khắt và Nà Ngần trong hai trận khai hỏa đầu tiên, mở ra truyền thống “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chỉ sau 8 tháng, Việt Nam Giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và nhân dân cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, làm nên thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do.
Dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che của nhân dân, Quân đội ta đã phát triển nhanh chóng, liên tục lập nên những chiến công xuất sắc. Từ “đội quân đàn anh” ban đầu với 34 chiến sĩ, Quân đội ta đã nhanh chóng phát triển thành 6 đại đoàn bộ binh, một đại đoàn công pháo và một số trung đoàn chủ lực, quân số hàng chục vạn người, liên tiếp giành thắng lợi trong các chiến dịch lớn, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải đầu hàng. Hai mươi mốt năm sau, Đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm tháng ấy, Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là lực lượng chiến đấu trên các mặt trận, mà còn là biểu tượng của ý chí toàn dân tộc, là hiện thân sinh động của nghệ thuật chiến tranh nhân dân độc đáo, sáng tạo, được bạn bè quốc tế khâm phục và ngưỡng mộ. Thực hiện chủ trương của Đảng “tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hóa và hiện đại hóa”, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục có bước trưởng thành mới, trở thành Quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân và sự ra đời của các quân đoàn chủ lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng gian khổ, ác liệt, hy sinh của Nhân dân ta.
Sự ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam vì thế là kết quả tất yếu của lịch sử, đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng, đồng thời khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng trong việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy bạo lực cách mạng của quần chúng làm công cụ giành và giữ chính quyền.
Khẳng định vai trò trụ cột trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
Từ những ngày đầu thành lập đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn phát triển gắn liền với những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân đội ta đã thể hiện bản lĩnh kiên cường, trí tuệ sáng tạo và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, làm nên những chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Bước vào thời kỳ hòa bình, thống nhất, quân đội tiếp tục đảm đương vai trò nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với nhiều quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc phòng, Quân đội nhân dân Việt Nam còn khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác dân vận, phát triển kinh tế - xã hội. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ luôn có mặt ở những nơi khó khăn nhất, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Các đoàn kinh tế - quốc phòng, lực lượng công binh, quân y, bộ đội biên phòng… đã và đang góp phần thiết thực vào phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng, tạo thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ngay từ cơ sở. Chính trong những hoạt động thầm lặng ấy, phẩm chất cao đẹp của người quân nhân cách mạng tiếp tục được bồi đắp, lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội.
Trên bình diện quốc tế, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực hội nhập quốc phòng, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu trợ nhân đạo, hợp tác quân sự đa phương và song phương. Sự hiện diện của lực lượng “mũ nồi xanh” Việt Nam tại các điểm nóng trên thế giới không chỉ thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế, mà còn góp phần nâng cao uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Từ một đội quân nhỏ bé ra đời trong gian khó, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc, trở thành lực lượng vũ trang hùng mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Những chiến công trong quá khứ, cùng những đóng góp to lớn trong hiện tại là minh chứng sinh động cho vai trò trụ cột không thể thay thế của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.












