Ký ức Hà Nội mùa Thu năm 1945
Sau ngày 19-8-1945, 'Hà Nội vặn mình vùng lên như người vừa khỏi ốm'. Ngõ Đông Xuyên, nơi gia đình ông Phạm Văn Thẩm ở, đã cấp tốc dựng một ngôi trụ sở nứa lá có hẳn một cột cờ cao vút, hiên ngang tung bay lá cờ đỏ sao vàng, chứ không còn phải bí mật như trước. Cậu thiếu niên Thẩm và các bạn cùng lứa được vào Đội Nhi đồng cứu quốc Phố Huế.
Nhiều năm trước, tôi được biết đến cựu chiến binh Phạm Văn Thẩm (bút danh Phạm Thắng), tác giả cuốn "Đội Thiếu niên tình báo Bát Sắt" - nổi tiếng là cuốn sách “gối đầu giường” của nhiều thế hệ thiếu niên Việt Nam.
Phỏng vấn, chuyện trò nhiều lần, tôi được biết, ông cũng chính là nguyên mẫu nhân vật trong cuốn sách - một thành viên của Đội Thiếu niên Bát Sắt. Khi thân tình hơn, ông kể nhiều về tuổi thơ đáng nhớ của mình trong những ngày tháng lịch sử của dân tộc mùa Thu năm 1945.

Các con phố ở Hà Nội được giăng đầy cờ đỏ sao vàng chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Năm ấy, đã chớm thu mà Hà Nội vẫn oi nồng ngột ngạt cái nóng mùa hạ. Ve sầu vẫn kêu rỉ rả trên ngọn cây phố vắng. Chạng vạng tối, anh trai ông chạy về nhà, người đẫm mồ hôi, thở hổn hển dặn các em: Ngoài phố nhộn nhạo lắm, các em không được ra phố. Việt Minh tung truyền đơn đầy đường. Lính Nhật lùng sục rất dữ nhưng không bắt bớ ai. Nghe nói, chúng thua trận đã đầu hàng.
Nói rồi, anh trai ông lên giường buông màn một cách hấp tấp vội vã, khác hẳn mọi ngày, khiến cậu em trai nhỏ chợt hiểu anh mình vừa làm gì ngoài phố. “Tôi rất tự hào về những hành động bí ẩn gần đây của anh. Tôi tự nhủ, phải kín đáo dò la xem anh có phải là Việt Minh không. Nếu đúng, nhất định tôi cũng phải làm một cái gì đó cho mà…”.
Một hôm, đang học lớp khai trí bình dân, ông Thẩm và các bạn nghe tiếng ồn ào như thác lũ tràn về và một hồi kẻng tan lớp vang lên. Lời truyền khẩu huyên náo “Việt Minh đã giành chính quyền”. Đám học trò các ông như ong vỡ tổ ùa ra sân, la hét, chạy ào theo đoàn người, phóng thẳng lên trung tâm Bờ Hồ. Quảng trường Nhà hát Lớn hiện lên một "biển" người chuyển động rợp rờn như sóng. Một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn, phủ gần kín bao lơn tiền sảnh Nhà hát...
Sau ngày 19-8, “Hà Nội vặn mình vùng lên như người vừa khỏi ốm”. Ngõ Đông Xuyên nơi gia đình ông Thẩm ở đã cấp tốc dựng một ngôi trụ sở nứa lá có hẳn một cột cờ cao vút, hiên ngang tung bay lá cờ đỏ sao vàng, chứ không còn phải bí mật như trước. Cậu bé Thẩm và các bạn cùng lứa được vào Đội Nhi đồng cứu quốc Phố Huế.
Sau Lễ Tuyên ngôn Độc lập ở vườn hoa Ba Đình, Hà Nội tưng bừng mở hội “Tuần lễ vàng cứu nước”, theo lời kêu gọi của Cụ Hồ. Những ngày diễn ra tuần lễ vàng, ông Thẩm tham gia đội trống ếch, mặc đồng phục, đội mũ ca-lô, đứng làm hàng rào danh dự hai bên dẫn vào trụ sở lâm thời phố Huế. Mỗi khi có đồng bào đến hiến vàng, đội trống ếch khua trống đến mỏi tay.
Mỗi lần cờ giương cao kèm lời hô vang: “Ủng hộ Việt Minh! Ủng hộ tuần lễ vàng! Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”, cả đội và đồng bào đứng đông nghịt sân trụ sở đồng thanh hô theo “Ủng hộ! Ủng hộ! Muôn năm!”. Tiếng trống lập tức đế theo: Tùng! Tùng! Tùng! Rinh…rinh…rinh…
Những ngày sau, ông Thẩm cùng các bạn trong đội ngày ngày khua vang trống ếch, đi dọc các đường phố cổ động phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, chẳng còn thời gian chơi lêu lổng. Các lớp bình dân học vụ mở ra khắp ngõ hẻm, phố lớn. Người Hà Nội bảo nhau trồng khoai ụ cứu đói. Người ta đan phên nứa khoanh tròn trên hè phố, đổ đất đặt dây khoai. Mỗi chiều thứ 7 cuối tháng, người dân phố Huế lại kê bàn thành dãy dài ngoài hè trước nhà, cơm nhà có gì mang ra món ấy, rau dưa cà muối cũng được, đổi cho nhau ăn đoàn kết. Mọi người chuyện trò râm ran, chúc nhau những điều tốt đẹp… Những hoạt động ấy làm cho mọi người gần nhau, hiểu và thêm yêu thương đùm bọc nhau, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn.

Một góc phố Huế hiện nay.
Tết Trung thu năm 1945 là lần đầu tiên trong đời ông Thẩm và các bạn được ăn một cái Tết Trung thu đặc sắc. Chỉ sau đó ít hôm, anh trai ông nói chuyện với bố về chuyện sắp xếp đưa các em tản cư về quê. Chỉ nghe vậy, hai chị gái của ông giãy nảy rồi phụng phịu đòi ở lại vì vừa học xong lớp cứu thương băng bó. Cậu em út Thẩm cũng cướp lời chị chen ngang: “Em cũng không đi tản cư, em làm liên lạc cho anh Đặng”.
Bố ông giọng buồn buồn nói: “Các con đều đã khôn lớn, biết xung phong việc nước như thế là bố mừng…”
Ông Thẩm sau đó đã tham gia đội thiếu niên liên lạc trinh sát, dưới sự chỉ đạo của Công an Hà Nội. Khi thực dân Pháp đang tạm chiếm Hà Nội, các thiếu niên trong đội làm nhiệm vụ trinh sát, liên lạc của các đơn vị chiến đấu trong nội thành Hà Nội, lập được nhiều chiến công. Tham gia cách mạng từ những ngày niên thiếu, ông Phạm Văn Thẩm sau này đã nhập ngũ và trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi trở thành một nhà giáo, công dân mẫu mực. Kỷ niệm tuổi thơ và những năm tháng tham gia kháng chiến chống Pháp vẫn theo những câu chuyện kể của ông tới những năm cuối đời; đã truyền cảm hứng sâu sắc cho thế hệ sau về tình yêu nước, sự dũng cảm, đấu tranh vì độc lập, tự do và bảo vệ Tổ quốc.