Ký ức tháng 12 năm 1972 của một cựu chiến binh đất cảng

Hơn nửa thế kỷ sau đêm bom B52 trút xuống Hải Phòng, Đại tá Nguyễn Kiên Cường vẫn nhớ như in giây phút xả thân cứu 5 thủy thủ Ba Lan giữa lửa đạn.

Khi lịch sử không nằm trong sách

Tháng 12 năm 2025, tôi tìm về Hải Phòng trong những ngày rét muộn. Thành phố cảng hôm nay bình thản, nhịp sống đều đặn, những con tàu ra vào cảng mang theo hàng hóa và ước vọng mưu sinh. Nhưng càng đứng lâu trước mặt biển, tôi càng có cảm giác mặt nước này đã từng gồng mình chịu đựng những gì dữ dội hơn rất nhiều.

Tôi đến gặp Đại tá Nguyễn Kiên Cường, nguyên Cục trưởng Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công an, ông cũng từng là 1 người lính làm nhiệm vụ tại Cảng Hải Phòng trong thời điểm của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Tôi gặp ông, không phải chỉ để nghe một câu chuyện cá nhân, mà để tìm hiểu một mảnh ký ức của tháng 12/1972 - thời điểm mà cả miền Bắc bước vào cuộc đối đầu khốc liệt nhất trên bầu trời trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thế hệ cha ông ta từng khẳng định, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không là trận quyết chiến chiến lược bằng không quân, nơi ý chí con người đối mặt trực diện với sức hủy diệt của công nghệ chiến tranh hiện đại.

Trong 12 ngày đêm, từ 18 đến 29/12/1972, những “pháo đài bay” B-52 của Mỹ trút bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều địa bàn trọng yếu. Mỗi chiếc B-52 mang theo hàng chục tấn bom, bay theo đội hình dày đặc, tạo thành những “thảm bom” có thể san phẳng cả khu dân cư, nhà ga, bệnh viện, cảng biển. Với những người trẻ như tôi, những con số ấy nằm trong sách lịch sử. Nhưng với thế hệ của Đại tá Nguyễn Kiên Cường, đó là bầu trời thật, lửa thật, cái chết thật.

Đại tá Nguyễn Kiên Cường, nguyên Cục trưởng Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công an.

Đại tá Nguyễn Kiên Cường, nguyên Cục trưởng Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công an.

Ngồi trước tôi là một người lính đã bước qua chiến tranh hơn nửa thế kỷ. Mái tóc bạc, giọng nói trầm, không cao giọng và cũng không tô đậm. Có lẽ ít ai có được sự bình thản ấy, bởi lẽ, chỉ những ai đã đi qua sinh tử nhiều lần mới có thể kể về nó nhẹ đến vậy.

Đại tá Nguyễn Kiên Cường nhớ lại: “Đêm 19, rạng sáng 20/12/1972, B-52 bắt đầu đánh vào Hải Phòng. Chỉ nghe một tiếng ‘rào rào’ rồi bom dội xuống liên tiếp. Một quả trúng thẳng vào con tàu viện trợ của Ba Lan đang neo tại cảng. Cabin nơi các thủy thủ ngủ bốc cháy dữ dội”. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, cố hình dung bầu trời thành phố nơi mình đang ngồi, nếu bị xé toạc bởi bom đạn thì sẽ ra sao.

Ở thời điểm đó, Đại tá Nguyễn Kiên Cường mới là một thanh niên đang mang trong mình giấc mơ học tập, tương lai mở rộng. Nhưng chiến tranh không cho phép người ta lựa chọn. Thế hệ ấy đã gác lại tất cả để khoác áo lính. Tôi nghe ông kể, trong đầu hiện lên câu hỏi không thể nói ra, nếu là mình ở tuổi đôi mươi, đứng trước biển lửa ấy, liệu có đủ can đảm bước tới?

Ông Cường kể: “Thấy lửa cháy, tôi lập tức lao vào, bởi tôi biết trên đó có những người thủy thủ đang làm nhiệm vụ. Khi ấy, cabin cháy lớn, khói dày đặc, cầu thang hẹp và chòng chành lắm. Nhưng tôi vẫn bình tĩnh tiếp cận và đưa được 5 thủy thủ Ba Lan ra ngoài”.

Dòng ký ức của người cựu chiến binh được tái hiện lại không một chút ngập ngừng trong giọng nói, như thể hành động ấy đã được lập trình sẵn trong bản năng của người lính.

Điều còn lại sau bom đạn

Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không kết thúc với việc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc và quay lại bàn đàm phán Paris. Trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng, nhiều chiếc B-52 bị bắn rơi. Nhưng cái giá mà nhân dân ta phải trả là vô cùng lớn - hàng nghìn người dân thiệt mạng, nhiều khu phố, làng mạc bị san phẳng. Đó là một chiến thắng, nhưng là chiến thắng được đánh đổi bằng máu, bằng nước mắt và bằng sự hy sinh không thể đong đếm.

Khi tôi hỏi điều gì đã thôi thúc ông làm như vậy, Đại tá Nguyễn Kiên Cường trả lời rất giản dị: “Đã là người lính thì việc gì cũng sẵn sàng làm. Với tôi, cứu người cũng là chiến đấu”.

Câu nói ấy khiến tôi im lặng rất lâu. Bởi nó khác xa cách mà những người trẻ lớn lên trong hòa bình chúng tôi thường nghĩ về lòng dũng cảm. Với ông, đó không phải là điều phi thường, mà là bổn phận.

Cảng Hải Phòng những năm 1970. Ảnh minh họa: TTXVN

Cảng Hải Phòng những năm 1970. Ảnh minh họa: TTXVN

Người cựu chiến binh chia sẻ, sau sự kiện ấy, ông được trao Huy hiệu Bác Hồ, Bằng khen của Chính phủ, danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng. “Tôi coi đó là sự ghi nhận của Tổ quốc, đồng thời là trách nhiệm phải sống và làm việc cho xứng đáng”, ông Cường khẳng định. Và thực tế, ông đã tiếp tục cống hiến trọn đời trong lực lượng Công an nhân dân, cho đến khi nghỉ hưu với quân hàm Đại tá.

Điều khiến tôi xúc động nhất là mong muốn chưa thành của ông, đó là được gặp lại những thủy thủ Ba Lan năm xưa. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chiến tranh đã lùi xa, mỗi người một ngả, mỗi đất nước một hành trình. Nhưng trong ông, ký ức về những con người xa lạ ấy vẫn nguyên vẹn.

“Nếu được gặp lại, chỉ cần biết họ còn sống… với tôi thế là đủ”, ông nói. Tôi chợt nhận ra, chiến tranh không chỉ để lại vết thương trên đất đai, mà còn để lại những mối dây liên kết rất sâu giữa con người với con người, vượt qua biên giới, ngôn ngữ và thời gian.

Trước khi chia tay, tôi hỏi ông về thế hệ trẻ hôm nay. Ông nhìn tôi - một phóng viên trẻ sinh ra khi đất nước đã hòa bình, nói chậm rãi: “Hãy học tập, rèn luyện đạo đức, tư duy, để phục vụ đất nước tốt hơn”. Lời nói của ông - không giáo điều, không lên giọng, chỉ đơn giản là một lời gửi gắm.

Hải Phòng ngày nay yên bình, bầu trời trong xanh, không còn tiếng bom. Nhưng trong tôi, câu chuyện của ông Cường khiến tháng 12 năm 1972 hiện lên rất gần, không phải như một trang sách lịch sử, mà như một ký ức sống.

Là thế hệ trẻ, tôi hiểu rằng mình không thể kể lại chiến tranh bằng trải nghiệm của chính mình. Nhưng là 1 phóng viên, tôi có trách nhiệm lắng nghe, ghi lại và truyền đi, để giữ lại cho thế hệ chúng tôi và các thế hệ sau này những ký ức bất khuất mà thế hệ cha ông ta đã trải qua và gây dựng.

Minh Trang

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/ky-uc-thang-12-nam-1972-cua-mot-cuu-chien-binh-dat-cang-436235.html